Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010

GEL SIÊU ÂM và BỆNH LÝ NỘI MẠC TỬ CUNG/Gel instillation sonography advantageous in endometrial evaluation

TRUYỀN NHỎ GIỌT GEL ĐÁNH GIÁ BỆNH LÝ NỘI MẠC TỬ CUNG


Gel instillation sonography advantageous in endometrial evaluation

Reuters Health • The Doctor's Channel Daily Newscast

Khảo sát siêu âm bệnh lý nội mạc tử cung với truyền nhỏ giọt gel để làm căng đầy buồng tử cung dễ thực hiện hơn truyền saline là một báo cáo của nhóm tác giả Bỉ. Dr. Thierry Van den Bosch và cộng sự, University Hospitals Leuven, cho biết khó mà giữ cho căng tốt buồng tử cung với saline và có thể gieo mầm tế bào ác tính vào ổ bụng qua vòi trứng, trong khi truyền gel có thể vượt qua các vấn đề này.

Nhóm nghiên cứu đã truyền nhỏ giọt saline cho 402 phụ nữ bị chảy máu bất thường và truyền nhỏ giọt gel cho 402 người khác. Truyền gel thành công hơn: tỉ lệ thất bại của truyền saline là 5,0% so với truyền gel là 1,8% và tỷ lệ thất bại tương ứng do làm căng không đầy đủ buồng tử cung là 1,5% (saline) so với 0,3% (gel).

 Về bệnh học, kết quả tăng sản nội mạc, pôlyp, ung thư hay nhân xơ lòng tử cung là 49% của truyền saline so với truyền gel là 40,2%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Độ nhạy lần lượt là 77,8% và 85%. Giá trị tiên đoán âm tính là 79,1% của truyền nhỏ giọt saline và 88,6% của truyền nhỏ giọt gel. Bất lợi (drawback) của truyền gel là khả năng chẩn đoán lầm máu cục là polyp vì saline vốn được dùng làm sạch cục máu đông.



Nhìn chung, cả hai kỹ thuật đều khả thi và chính xác. Tuy nhiên, "Gel có một số lợi thế hơn saline: làm đầy ổn định buồng tử cung, không cần thông bóng (balloon catheters), tiện nghi bệnh nhân được cải thiện, và, về lý thuyết, nguy cơ thấp hơn lan truyền trong phúc mạc tế bào ác tính. Vì vậy, nên sử dụng truyền nhỏ giọt gel thay vì truyền nhỏ giọt saline. "

Reference:

Detection of endometrial pathology using saline infusion sonography versus gel instillation sonography: a prospective cohort study, Fertil Steril 2010.



Không có nhận xét nào :