Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2010

Acoustic Structure Quantification, ASQ (ĐỊNH LƯỢNG CẤU TRÚC ÂM) của AplioXG Toshiba

ĐỊNH LƯỢNG CẤU TRÚC ÂM (Acoustic Structure Quantification, ASQ) của AplioXG Toshiba.

Định lượng cấu trúc âm (ASQ): Nhìn sâu hơn vào tín hiệu echo ở độ ly giải 100 lần cao hơn.

Toshiba Medical Systems Châu Âu giới thiệu công nghệ mới: Định lượng cấu trúc âm (ASQ). Một ứng dụng lâm sàng tiên tiến có thể phân tích dữ liệu tín hiệu echo ở độ ly giải cao hơn 100 lần so với những hình ảnh thang xám bình thường hoặc lưu lượng màu bằng cách sử dụng phần cứng đặc biệt mở rộng (Mặt phân giới Dữ liệu siêu âm thô của Toshiba, Toshiba Ultrasound Raw Data Interface).

"ASQ phân tích các mẫu echo trong không gian (spatial echo patterns) trong một khu vực quan tâm (ROI) lựa chọn bởi người sử dụng trên hình ảnh thang xám có được khi khám siêu âm bình thường. ASQ hoạt động trong nền với các dữ liệu thô từ khu vực này và cho ra một tham số và vẽ đường biểu diễn về  'tính đồng nhất'  hoặc 'độ mềm' của cấu trúc mô, phản ánh chùm siêu âm được máy AplioXG gửi vào cơ thể ", Tiến sĩ Noahisa Kamiyama, người đã thiết kế các thuật toán ASQ giải thích.
Tham số này cho thấy những thay đổi bệnh lý của mô, ví dụ như chuyển đổi hoá xơ (fibrotic) của nhu mô gan.

 ”Hầu hết các máy siêu âm không thể chấp nhận các dữ liệu tần số thuần âm radio (pure acoustic radio frequency [RF] data). Thay vào đó chỉ chọn các phân đoạn tín hiệu trích xuất để hiển thị hình ảnh B-mode trên màn hình".
ASQ hoạt động với bộ xử lý tín hiệu nhận tín hiệu RF thô và trích xuất dữ liệu của cấu trúc cực nhỏ, hoặc các dải sợi. Gan là một cơ quan mềm, trơn mượt, không có bất kỳ cấu trúc bất thường nào trong trạng thái lành mạnh.
ASQ tìm các tín hiệu thô để phân biệt các thay đổi nhỏ, những hồi âm của các cấu trúc rất mảnh từ nền nhiểu ồn tạo ra bởi sóng radio rồi chế biến dữ liệu này thành một dạng hữu ích cho các radiologists.

ASQ cung cấp hai phương thức trình bày, một là đồ thị thống kê, vẽ đường cong biểu diễn phân phối các thông số đáp ứng với các cấu trúc sợi mà chùm siêu âm phản ánh hoặc tính 'đồng nhất' hay độ ‘mềm' của mô. Cách thứ hai là hiển thị hình ảnh giống như hình ảnh Doppler quen thuộc với màu sắc của các giá trị khác nhau chồng trên hình B-mode.

Toyoda và Kumada trong American Journal of Roentgenology October 2009 báo cáo về tương quan giữa phân tích dữ liệu bằng ASQ và kết quả mô học của tế bào gan ở 148 ca, qua đó các giá trị trung bình của ASQ phù hợp với kết quả sinh thiết của bệnh nhân bị viêm gan mạn tính chưa xơ gan.

Các loạt giá trị ASQ chỉ ra chính xác mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng của viêm gan mạn tính ở bệnh nhân thuộc tiêu chuẩn phân loại quốc tế từ F1 đến F4. Những biểu đồ dấu hiệu của ASQ không xâm lấn phù hợp chặt chẽ theo biểu đồ khảo sát mô học và phân loại của ASQ của bệnh nhân F2 đến F4 nặng đã được xác nhận.

ASQ được bổ sung một bộ xử lý mạnh mẽ để dòng máy Aplio XG có thể phân tích các dữ liệu thô trong thời gian thực, trong khi các chức năng khác của Aplio XG hoạt động bình thường.






ASQ của gan của một bệnh nhân hoá xơ nghiêm trọng (độ 3). Tại khu vực ROI tăng cao giá trị trung bình của cm2 với phân phối tần số lệch về bên phải.

Tại MEDIC, BS Lê đình Vĩnh Phúc bước đầu có áp dụng công nghệ ASQ này trên  máy AplioXG.

Thứ Năm, 11 tháng 3, 2010

Ultrasonic Computed Tomography Combining with Elastography to Characterize Tissue Elastic Properties

MỘT PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TÍNH CHẤT ĐÀN HỒI MÔ: KẾT HỢP ĐO ĐỘ ĐÀN HỒI VỚI SIÊU ÂM CẮT LỚP 


BS NGUYỄN THIỆN HÙNG biên dịch
Trung tâm Y khoa MEDIC Hoà Hảo
Thành phố Hồ Chí Minh

(từ A Method for Characterization of Tissue Elastic Properties Combining Ultrasonic Computed Tomography with Elastography, Tanya Glozman- Haim Azhari, Israel Institut of Technology, J Ultrasound Med 2010; 29:387-398).

Tương quan giữa bệnh lý và thay đổi tính chất cơ học tại chỗ của mô mềm đã biết từ lâu. Hơn 20 năm qua, đã có nhiều nghiên cứu xác định tính chất cơ học mô sinh học bằng siêu âm đo độ đàn hồi. Nhưng phần lớn các nghiên cứu này chỉ xác định mỗi một loại sóng (sóng dọc hoặc sóng biến dạng).

Phương pháp kết hợp giữa UCT (Ultrasonic Computed Tomography) và đo độ đàn hồi này dựa trên hình ảnh học siêu âm để đo kết hợp cả độ đàn hồi tán xạ (backscattered elastography) và cắt lớp siêu âm  truyền xuyên mô (through-transmitted ultrasonic computed tomography). Phương pháp này đo cả tốc độ sóng dọc và sóng biến dạng, giúp tính toán các thông số đàn hồi mô một cách không xâm lấn như độ đàn hồi Young và độ đàn hồi sóng biến dạng, chỉ số Poisson, và quan trọng nhất là độ đàn hồi khối (bulk modulus). Để xác định độ đàn hồi khối cần có cả số đo tốc độ sóng biến dạng và tốc độ sóng dọc cùng lúc.



H.1: Một vật được đặt trong một thùng nước giữa 2 đầu dò siêu âm. Một tín hiệu được phát từ một đầu dò và được phát hiện bởi đầu dò kia. Một card chuyển data từ analog sang digital. Có được một hình quét của vật ở mode planar CT.



H.2: Hệ thống đo độ đàn hồi: Nguồn piezoelectric shear wave dính chặt vật khảo sát. Các mũi tên chỉ vector chuyển động. Sự dời chỗ mô được phát hiện bằng cách dùng một đầu dò siêu âm.
A/D=analog/digital; v à I/O=input/output

Có 2 hệ thống được thiết kế: Hệ thống UCT để đo tốc độ sóng dọc CL và hệ thống transient elastography để đo tốc độ sóng biến dạng CS.

Giá trị của CS thay đổi từ 1 đến 10m/s trong khi CL trong mô mềm khoảng 1500m/s.

Cả tốc độ sóng dọc và sóng biến dạng đều cần để xác định tính chất đàn hồi mô cơ thể.

Độ đàn hồi khối chỉ có thể được xác định bằng cách kết hợp số đo tốc độ sóng dọc và sóng biến dạng nên độ đàn hồi khối thích ứng cho việc phân loại các mô khác nhau, là lợi ích của việc kết hợp giữa UCT và đo độ đàn hồi.

Đây là phương pháp hổ trợ giúp phát hiện ung thư vú cho nhũ ảnh cũng như dùng với xung lực bức xạ âm (acoustic radiation force impulse) hay tạo hình chuyển động hoà âm (harmonic motion imaging) để đo tốc độ sóng biến dạng.