Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2011

Xơ hóa gan do viêm gan virút: Đánh giá bằng kỹ thuật ARFI đối chiếu với FibroScan

Liver Fibrosis in Viral Hepatitis: Noninvasive Assessment with Acoustic Radiation Force Impulse Imaging versus Transient Elastography,  Mireen Friedrich-Rust,  Katrin Wunder, Susanne Kriener, Fariba Sotoudeh, Swantje Richter, Joerg Bojunga, Eva Herrmann, Thierry Poynard, Christoph F. Dietrich, Johannes Vermehren, Stefan Zeuzem and  Christoph Sarrazin,   August 2009 Radiology, 252, 595-604.

Tóm tắt
Mục đích: So sánh công nghệ tạo hình xung lực bức xạ âm (ARFI) được  tích hợp vào máy siêu âm quy ước với đo độ đàn hồi thoáng qua (transient elastography, TE) và các test dấu ấn huyết thanh (serologic markers) xơ hóa để đánh giá xơ hóa gan không xâm lấn trong một nghiên cứu thí điểm.

Đối tượng và phương pháp: Tất cả đối tượng đều nhận được thỏa thuận thông báo, và Ủy ban đạo đức tại chỗ chấp thuận nghiên cứu này. Tạo hình ARFI là kích thích mô cơ học bằng cách sử dụng xung âm thời gian ngắn gây dời chỗ khu trú trong mô. Sự dời chỗ làm lan truyền sóng biến dạng, được theo dõi bằng cách sử dụng phương pháp tương quan siêu âm (US correlation-based methods) và ghi lại theo đơn vị mét/giây. 86 bệnh nhân viêm gan virus mạn tính được khám TE, ARFI  và thử dấu ấn huyết thanh xơ hóa. Kết quả được so sánh với sinh thiết gan, là tiêu chuẩn tham khảo.

Kết quả: Kết quả tạo hình ARFI (ρ = 0,71), TE (ρ = 0,73), và test dấu ấn huyết thanh xơ hóa (ρ = 0,66) có tương quan có ý nghĩa với giai đoạn hóa xơ mô học (P nhỏ hơn 0,001). Vận tốc trung bình ARFI trong khoảng từ 0,84 đển 3,83 m/sec. Các khu vực dưới đường cong ROC cho tính chính xác của tạo hình ARFI, TE, và test dấu ấn huyết thanh xơ hóa lần lượt là 0,82, 0,84 và 0,82, để chẩn đoán xơ hóa trung bình (giai đoạn xơ mô học, ≥2), và 0,91, 0,91 và 0,82, để chẩn đoán chai gan .

Kết luận: Tạo hình ARFI là một phương pháp siêu âm đầy hứa hẹn để đánh giá xơ hóa gan trong viêm gan virus mạn tính, với chẩn đoán chính xác tương tự với TE trong nghiên cứu sơ bộ này.

Bàn luận
Trong viêm gan mạn do virus, định giai đoạn xơ hóa gan là một tham số quan trọng trong việc đánh giá nhằm xác định cách điều trị kháng virus thích hợp. Cho điểm TE và FibroTest là hai phương pháp không xâm lấn được khảo sát trong nhiều nghiên cứu và cung cấp kết quả so sánh được để xác định xơ hóa gan. Trong nghiên cứu thí điểm của chúng tôi, kết quả của tạo hình ARFI để đo xơ hóa gan không xâm lấn được so sánh với kết quả cho điểm của TE và FibroTest. Sau những kết quả sơ bộ, một nghiên cứu lớn được thực hiện nhằm chứng minh tạo hình ARFI không kém hơn TE về lâm sàng.

Theo chúng tôi biết, đây là nghiên cứu đầu tiên về giá trị của tạo hình ARFI để đánh giá xơ hóa gan được đánh giá. Nightingale et al, trong một nghiên cứu định lượng sơ bộ in vivo của tạo hình ARFI, thông báo sự dời chỗ gây ra trong mô gan chai ít  hơn trong mô gan không bị chai. Dời chỗ ít hơn được liên kết với vận tốc sóng biến dạng nhanh hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở bệnh nhân chai gan, vận tốc sóng biến dạng trung bình cao hơn đáng kể (2,29 m/sec) được ghi nhận so với bệnh nhân không xơ hóa (1,18 m/sec). Ngoài ra, chúng tôi có thể chẩn đoán xơ hóa trung bình hoặc nặng với độ chính xác chẩn đoán cao. Mặc dù các người tình nguyện lành mạnh có tốc độ ARFI trung bình tương tự với các bệnh nhân với Metavir hóa xơ giai đoạn F0, số đo cá thể ở người tình nguyện lành mạnh biến thiên trong khoảng từ vận tốc của bệnh nhân không có xơ hóa mô học đến vận tốc ở bệnh nhân chai gan. Tuy nhiên, dữ liệu phòng thí nghiệm của người tình nguyện lành mạnh không có sẵn, vì vậy các yếu tố có liên kết với vận tốc cao chưa được kết luận. Trong tương lai, để giải quyết các hệ lụy (coherences) này, cần nghiên cứu thêm các đối tượng khỏe mạnh với số lượng lớn hơn.

Phân tích mô học, làm cho dễ dàng việc định giai đoạn hóa xơ, cũng cho thông tin về các hoạt động viêm hoại tử (necroinflammatory activities) trong gan, vốn có liên kết với tiến triển của bệnh gan. Hoạt động viêm hoại tử không thể định lượng được với siêu âm đàn hồi (sonoelastography), và đây là một hạn chế của kỹ thuật. Hiện tượng viêm của gan có ảnh hưởng đến việc định giai đoạn xơ hóa gan chính xác. Wong et al  báo cáo rằng trong số bệnh nhân với giai đoạn hóa xơ tương tự, những người có mức men ALT cao cấp tính thường có giá trị TE cao hơn  những người có mức ALT bình thường.
Chúng tôi đã thực hiện các khảo sát liên quan đến giá trị TE trong nghiên cứu  này; tuy nhiên, giữa hai nhóm ALT, các kết quả tạo hình ARFI khác nhau không đáng kể. Khi phân tích ảnh hưởng của dấu ấn hoạt động viêm hoại tử (ActiTest) với đo độ cứng gan cũng quan sát được kết quả tương tự. Một lần nữa, kết quả của chúng tôi về mối tương quan với kết quả ActiTest không có ý nghĩa; tuy nhiên, điều này có thể do số lượng bệnh nhân tương đối nhỏ.

Các ngưỡng đánh giá xơ hóa và chai gan tăng lên nhẹ khi bệnh nhân bị nhiễm vi rút viêm gan B đã bị loại trừ. Những lý do này có thể là tần suất chai gan dạng hạt to (macronodular) cao hơn và phân bố mô sợi không đều ở bệnh nhân bị nhiễm viêm gan B.

Hơn nữa, phần lớn bệnh nhân chai gan có dấu hiệu lâm sàng rõ của chai gan Tuy nhiên, đây là một nghiên cứu so sánh các phương pháp đánh giá xơ hóa gan không xâm lấn khác nhau, trong đó số bệnh nhân chai gan đã có ảnh hưởng đến kết quả như nhau cho tất cả các phương pháp. Bệnh nhân có báng bụng đã bị loại trừ khỏi nghiên cứu này. Sự hiện diện của báng bụng  là một chỉ báo mạnh của chai gan, làm cho việc định giai đoạn hóa xơ trở nên không cần thiết. Cuối cùng, mẫu tương đối nhỏ là một giới hạn của nghiên cứu.

Tuy nhiên, đây chỉ là một nghiên cứu thí điểm để đánh giá tạo hình ARFI mà thôi.
 


 

© RSNA, 2009

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯƠNG QUAN CỦA ĐO ĐỘ ĐÀN HỒI ARFI VỚI XƠ HÓA GAN (Factors that Influence the Correlation of Acoustic Radiation Force Impulse (ARFI) Elastography with Liver Fibrosis, S Bota et al, Medical Ultrasonography 2011, Vol 13, n0.2, 135-140).



Tóm tắt
Mục tiêu: Để thiết lập ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau về sự tương quan giữa phép đo độ cứng gan (LS) bằng ARFI và xơ hóa gan, đánh giá bởi sinh thiết gan (LB). Chúng tôi đánh giá các yếu tố sau: tỷ lệ thành công (success rate, SR) và interquartile range (IQR) interval, nơi đo ARFI, gan thấm mỡ (steatosis), chất lượng bệnh phẩm sinh thiết.

Phương pháp: Nghiên cứu trên 471 bệnh nhân: 82 có sinh thiết LB, 82 người lành mạnh và 307 bệnh gan mạn tính. Chúng tôi thực hiện 10 lần đo ARFI hợp lệ, tính giá trị trung bình theo đơn vị mét/giây.

Kết quả: Không thu được kết quả đo hợp lệ ở 11 bệnh nhân. Có tương quan trực tiếp, mạnh (r = 0,694) giữa ARFI và xơ hóa gan (p nhỏ hơn 0,0001). Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các giá trị ARFI giữa hạ phân thùy V và VIII (p = 0,89). Đối với IQR và SR, mối tương quan của ARFI với xơ hóa gan là: với IQR nhỏ hơn 30% và SR≥60%: r = 0,722 và với IQR lớn hơn 30% và/hoặc SR≤60%: r = 0,268 (p = 0,0001). Chất lượng của mẫu bệnh phẩm sinh thiết (dài 2-3 cm đối với lớn hơn 3 cm) không ảnh hưởng đến tương quan của ARFI với xơ hóa gan.

Kết luận: Để có tương quan tốt nhất giữa ARFI và xơ hóa gan, IQR phải nhỏ hơn 30% và SR≥60%. Các thông số kỹ thuật này phải được giới thiệu để tăng cường giá trị ARFI trong đánh giá độ cứng gan LS.


Abstract


Aim: To establish the influence of different factors on the correlation between liver stiffness (LS) measurements by ARFI and liver fibrosis, evaluated by liver biopsy (LB). We assessed the following factors: the success rate (SR) and interquartile range (IQR) interval, the place where ARFI was performed, liver steatosis, the quality of the specimen obtained by LB.

Methods: We studied 471 patients: 82 with LB, 82 healthy volunteers and 307 with cirrhosis. We performed 10 valid ARFI measurements, a median value was calculated, expressed in meters/second.

Results: Valid measurements were not obtained in 11 patients. There was a direct, strong, correlation (r=0.694) between ARFI and fibrosis (p lesser than 0.0001). There were no statistically significant differences between the mean ARFI values obtained in segments V vs. VIII (p=0.89). Considering the IQR and SR, the correlation of ARFI with fibrosis was: for IQR lesser than 30% and SR≥60%: r=0.722 and for IQR more than 30% and/or SR≤60%: r=0.268 (p=0.0001). The quality of the liver specimen (2-3 cm long vs. more than 3 cm) did not influence the correlation of ARFI with fibrosis.

Conclusions: To obtain the best correlation between ARFI and fibrosis, IQR must be lesser than 30% and SR≥60%. These technical parameters must be introduced to improve the ARFI value for LS evaluation.

------------------------------------------
Nota:
 
success rate (SR), defined as the ratio of successful acquisitions over the total number of acquisitions.

interquartile range (IQR) interval, defined as the difference between the 75th and the 25th percentile, essentially the range of middle 50% of the data.

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2011

Siêu âm đánh giá Áp Lực Tĩnh Mạch Trung Tâm CVP

Từ  Ultrasound Assessment of CVP: Useful Tool or Wishful Thinking?  Erin K. Broderick

Posted: 08/23/2010; AccessMedicine from McGraw-Hill © 2010 All rights reserved. From Tintinalli's Emergency Medicine

Background
Theo River’s Early Goal Directed Therapy, nếu nhiễm trùng huyết nghiêm trọng hoặc có khả năng sốc nhiễm trùng, bác sĩ điều trị sẽ bắt đầu tích cực bù dịch trong khoa cấp cứu (ED). Siêu âm đã được chứng minh có thể đo kích thước tĩnh mạch Chủ dưới  (IVC) và thay đổi kích thước IVC với hô hấp một cách không xâm lấn, mà sự thay đổi kích thước IVC này có tương quan đến áp suất tâm nhĩ P và tình trạng huyết động học. Bác sĩ cấp cứu có thể sử dụng điều này như là biện pháp phụ trợ sớm cho quá trình hồi sức trong những trường hợp nghi ngờ là sốc giảm thể tích (hypovolemic). Một bài viết gần đây xuất bản trong Annals of Emergency Medicine đưa ra giả thuyết rằng chỉ số TMChủ dưới (caval index) lớn hơn hoặc bằng 50% tương ứng với áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP) nhỏ hơn 8 mmHg.

Phương pháp

Đây là một nghiên cứu tiền cứu, khảo sát tại trung âm cấp cứu thành phố ở New England. Một mẫu nghiên cứu của bệnh nhân cấp cứu được chọn nếu tiếp cận được CVP và biểu thị trên màn hình dựa trên tình trạng bệnh nhân. 

Đo đường kính IVC cách bờ nhĩ P 2-3cm theo mặt cắt dọc trong một chu kỳ hô hấp. Caval index dựa vào giảm tương đối đường kính của IVC từ thì thở ra đến thì hít vào.  CVP được theo dõi ngay sau khi  khảo sát siêu âm xong. CVP thấp được xác định là nhỏ hơn 8 mmHg.




Hình 1 và Hình 2.

Hình 1 cho thấy đường kính IVC cuối kỳ hít vào và hình 2 cho thấy đường kính IVC cuối kỳ thở ra. Caval Index được tính là (đường kính  cuối kỳ hít vào — đường kính  cuối kỳ thở ra / đường kính cuối kỳ hít vào), và tỷ lệ phần trăm  Caval Index = caval index x 100.


Caval Index còn được gọi là IVC collapsibility index = [Maximum IVC dimension- Minimum IVC dimension] X 100/ Maximum IVC dimension


Kết quả

Với 73 bệnh nhân, độ nhạy của caval index lớn hơn hoặc bằng 50% để dự đoán một CVP thấp là 91%. Độ chuyên biệt là 94% với giá trị tiên đoán dương và âm lần lượt là 87% và 96%. Nghiên cứu cho thấy chỉ số caval index là một dự báo mạnh cho CVP thấp và đặc biệt mạnh trong xác định bệnh nhân không có CVP thấp. Có 9 ca không thể đo IVC không được tính đến trong phân tích cuối cùng.



Liên quan đến cấp cứu nội khoa


Siêu âm là phương thức tạo hình không đau, không phóng xạ, không xâm hại có thể được thực hiện tại giường bệnh. Đánh giá đường kính IVC để ước tính thể tích tuần hoàn (volume status) bằng siêu âm được tiến hành nhanh chóng, và nếu tin cậy được, có thể tránh được biến chứng của các biện pháp theo dõi xâm hại, bao gồm cả tiêm động mạch, huyết khối tĩnh mạch và nhiễm trùng. Trong nghiên cứu này, bác sĩ mất khoảng 3 phút để hoàn thành cuộc khám. Tuy nhiên, ngay cả được huấn luyện chuyên sâu, có đến 12% bệnh nhân do tạng cơ thể lớn (large body habitus), quá nhiều hơi bụng hoặc một lượng lớn intrathoracic air…làm cho không thể thấy được IVC. Điều này làm tăng nghi ngờ liệu bác sĩ cấp cứu có thể thực hiện kịp thời với kết quả tương tự không.

Có các sai sót tiềm ẩn trong thiết kế nghiên cứu trên. Các tương quan ban đầu của đường kính IVC  và thay đổi với hô hấp được mô tả ở đối tượng lành mạnh trong quiet respiration. Các tác giả lưu ý rằng có một tỷ lệ lớn bệnh nhân đặt nội khí quản trong nhóm CVP cao. Các đo đạc IVC với máy giúp thở ít đáng tin cậy hơn bởi những khác biệt trong intrathoracic pressure với positive pressure ventilation so với áp lực âm thông khí bình thường, mặc dù các hiệu ứng này đã không được khảo sát tốt. Có nghi vấn là cần có bệnh nhân đặt nội khí quản hay không. 

Ngoài ra, trong giới siêu âm, vị trí đo đường kính IVC (theo trục dọc hoặc ngang) hay hướng đầu dò vẫn chưa được chuẩn hoá. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây trong Academic Emergency Medicine so sánh ba nơi phổ biến nhất và thấy rằng có sự nhất quán trong cách đo đường kính IVC ở vị trí hai centimét phía dưới nơi tĩnh mạch gan đổ vào IVC theo trục dọc (long axis) và ở ngang tĩnh mạch thận T theo trục ngang (short axis).

Quan trọng hơn, trong khi siêu âm có thể giúp xác định CVP, bằng chứng gần đây cho thấy CVP đơn độc là không cần để tiên đoán thể tích tuần hoàn hoặc đáp ứng bù dịch (fluid responsiveness), chứng minh bởi sự tăng cung lượng tim (cardiac output) sau bù dịch. Một nghiên cứu gần đây được công bố trong Intensive Care Medicine gợi ý cho việc nâng cao 2 chân thụ động đã gây ra những thay đổi trong cung lượng tim, có thể dự đoán đáp ứng bù dịch đáng tin cậy mà không cần phân biệt chế độ thông khí và nhịp tim.



Điều này tiếp tục khẳng định rằng siêu âm tại giường chỉ là biện pháp phụ trợ, chứ không thể thay thế, cho khám lâm sàng và các phương tiện khác nhằm đánh giá thể tích tuần hoàn (volume status) và tưới máu đầy đủ cho các cơ quan tận khi bắt đầu điều trị tại khoa cấp cứu.


CÁCH ĐO KÍCH THƯỚC TĨNH MẠCH CHỦ DƯỚI (IVC) BẰNG SIÊU ÂM (từ STANFORD UNIVERSITY, Echocardiography in ICU)

Từ subcostal 4 chamber view, chuyển đầu dò vào giữa để thấy tâm nhĩ P bên P màn hình và thấy phần gan rộng nhất; giữ nguyên hướng và độ sâu, chuyển mũi đầu dò hướng về vai P. Rồi xoay đầu dò theo chiều kim đồng hồ cho đến khi thấy IVC theo trục dọc hòa lẫn vào tâm nhĩ P. Sẽ thấy IVC băng qua gan và đổ vào tâm nhĩ P. Thường cũng thấy các tĩnh mạch dưới gan đổ vào IVC.


Đo đường kính IVC và thay đổi đường kính theo hô hấp

Đo đường kính IVC khoảng 2-3 cm trước khi đổ vào tâm nhĩ P, nơi mà các vách của IVC song song nhau.
Trong điều kiện bình thường khi bệnh nhân thở tự nhiên, đường kính IVC thay đổi với chu kỳ hô hấp, do thay đổi áp suất lồng ngực và sự đi xuống của cơ hoành. Bình thường, đường kính IVC nhỏ hơn 2,5cm.

Lấy kích thước lớn nhất của IVC làm mốc (thở ra (expiration), ở bệnh nhân thở tự nhiên, bơm (insufflation), ở bệnh nhân thở áp suất dương).




Cách tốt nhất để trình bày kích thước IVC thay đổi theo chu kỳ hô hấp là dùng M-mode. Đặt chùm siêu âm trong mặt cắt ngang qua IVC, rồi kích hoạt M-mode. Sẽ thấy cấu trúc dạng đường của chùm siêu âm chuyển động theo thời gian, và dễ dàng đo đường kính nhỏ nhất và lớn nhất của IVC.




Để tránh nhầm lẫn, nên kiểm tra hình B-mode trước để thấy IVC trong chu kỳ hô hấp rồi hãy kích hoạt M-mode.

Ý nghĩa của thay đổi đường kính IVC trong chu kỳ hô hấp

Tiếp cận IVC là chìa khóa để đánh giá thể tích tuần hoàn (volume status) bệnh nhân. Việc lý giải kết quả thông số tùy vào cách thở (thở tự nhiên, spontaneously breathing hoặc thở máy, mechanical ventilation).

Bệnh nhân thở tự nhiên (Spontaneously breathing patients): Đường kính IVC và thay đổi đường kính với hô hấp phản ánh áp suất tâm nhĩ P.

Bệnh nhân thở máy (Patients with mechanical ventilation): Thay đổi đường kính của IVC giúp tiên lượng đáp ứng với việc bù dịch.



Ghi chú:

Áp lực tĩnh mạch trung tâm

Định nghĩa: Áp lực tĩnh mạch trung tâm (central venous pressure, CVP) là áp lực máu ở tĩnh mạch chủ dưới đoạn trong ngực,  gần tâm nhĩ P, phản ánh lượng máu trở về tim (tức thể tích tuần hoàn) và khả năng tim bơm máu vào hệ động mạch.

CVP xấp xỉ bằng áp lực tâm nhĩ P, một yếu tố quyết định chủ yếu thể tích cuối tâm trương của tâm thất P (tuy có một số biệt lệ trong một số trường hợp).


Đơn vị CVP là cmH2O hoặc mmHg (1,35 cmH2O = 1 mmHg),  có thể đo ngắt quãng bằng thước đo cột nước chia vạch hoặc đo liên tục qua bộ phận biến áp kết nối với monitor.

Áp lực tĩnh mạch trung tâm CVP bình thường là 5-12 cm H20.

Có 4 yếu tố ảnh hưởng đến CVP=

(1) thể tích trong huyết quản. 
(2) áp lực trong lồng ngực. 
(3) chức năng tâm thất phải, và 
(4) trương lực tĩnh mạch, tất cả ảnh hưởng lên áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP). Để giảm sự biến thiên gây nên bởi áp lực trong lồng ngực, áp lực tĩnh mạch trung tâm nên được đo vào cuối thời kỳ thở ra hoặc ở thông khí áp lực dương hay âm.