Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

KIỂU DẠNG PHỔ MẠCH MÁU TRONG CHAI GAN


Trong khi đã biết rõ hiện tượng đảo chiều dòng chảy tĩnh mạch Cửa, còn có các kiểu phổ khác, tuy không dễ hiểu, lại có vai trò quan trọng trong đánh giá tình trạng bệnh lý. Bài này thảo luận các đặc trưng phổ khác nhau của tĩnh mạch Cửa, động mạch gan, và tĩnh mạch gan ở bệnh nhân chai gan hoặc các biến chứng liên quan và các thủ thuật.
Hiểu biết các kiểu phổ giúp thêm thông tin nhằm xác định hướng điều trị. Siêu âm Doppler không đánh giá được [invaluable]  khi cân nhắc ghép gan và chẩn đoán chai gan và cao áp tĩnh mạch Cửa.


Portal Venous Flow Patterns in Cirrhosis
Portal Vein Pulsatility
Sluggish or Slow Portal Venous Flow
Helical Flow Pattern
To-and-Fro Portal Venous Flow Pattern
Flow Reversal
Stagnant Portal Flow and Thrombosis
Portal Vein Aneurysm
Pseudothrombosis

Hepatic Vein Flow Patterns in Cirrhosis Patients

Hepatic Arterial Changes
Increased Resistive Index
Increased Hepatic Artery Velocity

Portal Venous Flow Patterns in Cirrhosis

Tĩnh mạch Cửa có phổ đập [xung hóa]
Các dạng sóng tĩnh mạch Cửa bình thường thường thấy uốn nhẹ  (Hình. 1). 



Ở những bệnh nhân chai gan, thông nối  arterio-portal là nguyên nhân chính cho hiện tượng tăng  pulsatility. Tăng pulsatility có thể được đo bằng cách tính chỉ số pulsatility; chỉ số  pulsatility được đo bằng phần chênh lệch giữa vận tốc đỉnh tâm thu và vận tốc cuối tâm trương chia cho vận tốc trung bình. Tăng  chỉ số pulsatility xảy ra do việc truyền tải áp lực trên xoang gan trong thì cuối tâm trương [ 3,4]. Ngoài ra, chỉ số pulsatility tăng (lớn hơn 0,5) có thể xảy ra với áp lực nhĩ phải cao, có thể thấy ở suy tim phải và suy van ba lá. 
Cơ sở shunting arterio-portal là sự biến dạng cấu trúc thấy ở bệnh nhân chai gan kết hợp với dòng chảy tĩnh mạch Cửa đảo ngược  và tăng trở kháng  các tĩnh mạch nhỏ trong gan. Hơn nữa, ung thư biểu mô tế bào gan, thường gặp ở bệnh nhân chai gan, có thể gây shunting quanh u  qua các tĩnh mạch thoát. Sinh thiết gan trên bệnh nhân chai gan cũng có thể dẫn đến sự hình thành  rò arterio-portal. Shunting arterio-portal trong các trường hợp chai gan có thể dẫn đến tăng pulsatility tĩnh mạch Cửa (Hình. 2) [5]. 


Do đó, tăng pulsatility tĩnh mạch Cửa ở bệnh nhân chai gan, tùy thuộc vào  bệnh sử, đánh giá có hiện diện hay không của một tổn thương mạch máu hoặc rò arterio-portal. Dấu hiệu thứ phát mà pulsatility có thể giúp chẩn đoán shunts arterio-portal  đó là đồng bộ với dạng sóng động mạch gan lân cận [6].

Dòng tĩnh mạch bất động  hoặc chậm

Khoảng  bình thường của vận tốc tâm thu cao nhất của tĩnh mạch Cửa (MPV) từ 20 cm / giây đến 40 cm / giây. Nói chung ngoài việc tăng khẩu kính MPV, vận tốc dòng chảy thấp nhỏ hơn 16cm / giây là đặc điểm chẩn đoán  cao áp tĩnh mạch Cửa [7]. Chai gan là do cao áp tĩnh mạch Cửa  thứ phát trong gan để làm tăng trở kháng ở tĩnh mạch gan nhỏ do xơ hóa gan [8]. Vận tốc chính xác các phép đo trong MPV phụ thuộc vào nhiều thông số, bao gồm góc dòng chảy chùm âm [Doppler / beam-flow]. Vận tốc dương tính giả có thể là thứ phát nếu  góc Doppler gần 90 độ so với hướng dòng chảy [9]. Sự lựa chọn tần số Doppler cũng ảnh hưởng đến đo vận tốc, vì tần số cao hơn tạo ra độ chính xác cao hơn  vận tốc trong khi tần số thấp hơn cho phép thâm nhập tốt hơn.

Cuối cùng, sự hiện diện của một dòng chảy rối và lỗi lấy mẫu có thể dẫn đến sự đánh giá thấp hoặc cao quá mức của vận tốc dòng chảy [10].

Kiểu dòng chảy xoắn ốc
Dòng chảy xoắn ốc là loại dòng chảy thứ phát (được xác định là một dòng chảy nhỏ chồng lên trên dòng chảy nguyên phát). Dòng chảy xoắn ốc gây ra bởi dòng chảy theo lớp [lamina flow] bị xáo trộn [11,12]. Sự thay đổi về độ nhớt, hình dạng mạch máu, sự bất đối xứng khu trú dọc theo thành mạch, và những thay đổi về hướng và tốc độ dòng chảy có thể gây ra các kiểu xoắn ốc nổi bật [13]. Tạo hình Doppler màu cho thấy các dải màu đỏ và xanh xen kẽ trong một kiểu xoắn ốc (Hình 3). 





Helicity lần đầu tiên được nhận ra trong thay đổi  khẩu kính khu trú  ở hành cảnh. Các nghiên cứu về động mạch cảnh cho thấy  dòng chảy xoắn ốc có thể là dấu hiệu của dòng biến dạng xáo trộn hoặc dòng chảy rối [14]. Hơn nữa, một số nhà nghiên cứu đã  giả thuyết rằng kiểu dòng chảy này có thể có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa quá trình sinh xơ và tăng sản xơ lớp nội mạc mạch máu [15].
Helicity, mặc dù thường thoáng qua, gặp  trong cả ghép gan và transjugular intrahepatic portosystemic shunt (TIPS). Nếu dòng chảy xoắn ốc dai dẳng kéo dài, là do  kết hợp của tăng vận tốc tĩnh mạch Cửa  với tăng hẹp tĩnh mạch Cửa (Hình 4). 


Dòng xoắn ốc ở bệnh nhân ghép gan là do sự thay đổi đường kính tĩnh mạch Cửa giữa mạch máu người cho và mạch máu người nhận, và thấy rõ  khi  khác biệt thiết diện giữa các tĩnh mạch Cửa lớn hơn 50%. Điều này phù hợp với các tác giả khác, báo cáo rằng diện tích mặt cắt ngang mạch máu gây ra sự phân ly dòng chảy, tạo ra kiểu vòng tròn [16]. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng ngay sau khi ghép gan, dòng chảy xoắn ốc trong tĩnh mạch cửa được giải quyết do vận tốc dòng chảy giảm và chảy rối  cục bộ [17]. Dòng chảy xoắn ốc cũng thấy ở  những người nhận TIPS. Trong một phân tích tiến cứu, tần suất của dòng chảy xoắn ốc sau đặt TIPS được báo cáo là 28% sau khi đặt với thời gian xuất hiện thay đổi .
Thủ thuật TIPS làm thay đổi các thông số huyết động của dòng chảy, bao gồm vận tốc tĩnh mạch cửa, hướng dòng chảy và tính chất đập của dòng chảy [18]. Số lượng dòng chảy rối được tạo ra bởi những thay đổi động học này khác nhau giữa các bệnh nhân, và không thể dự đoán được liệu một dòng chảy xoắn ốc có xảy ra ở hậu phẫu hay không.

Kiểu dòng chảy tĩnh mạch Cửa To-and-Fro [tới-lui]

Với sự gia tăng áp lực tĩnh mạch Cửa,  vận tốc dòng chảy tĩnh mạch Cửa  giảm liên tục đến mức trì trệ. Khi điều này xảy ra, có thể gặp hiện tượng của dòng chảy tới và lui , do đó, cột máu gần như trì trệ trong tĩnh mạch Cửa bị lệch vào và ra khỏi gan với chu kỳ hô hấp. Ảnh hưởng của dòng chảy đảo ngược tạm thời hoặc ngừng dòng chảy về phía trước trong thì hít vào có thể được mô phỏng bằng thủ thuật Valsalva, điều này cũng dẫn đến dòng chảy xa gan [hepatofugal ] thoáng qua (Hình 5). Khi cao áp tĩnh mạch Cửa nặng hơn, sự trì trệ của cột máu sẽ gây ra huyết khối hoặc trở thành  dòng chảy đảo ngược.




Dòng chảy đảo ngược  [Flow Reversal]

Dòng chảy  tĩnh mạch Cửa thường là hướng về gan [hepatopetal].  Đảo ngược dòng chảy (hoặc dòng chảy xa gan [hepatofugal]) thấy trong trường hợp cao áp tĩnh mạch Cửa (Hình 6). Đặc biệt, ở những bệnh nhân chai gan, tắc nghẽn các tĩnh mạch nhỏ trong gan và các xoang gan do xơ hóa gan, được chứng minh bởi shunting  arterio-portal và porto-system, cuối cùng dẫn đến đảo ngược dòng chảy. Đảo ngược dòng chảy được phát hiện bằng cách sử dụng phổ và siêu âm màu Doppler.
Các bẩy siêu âm có thể xảy ra do biến dị  giải phẫu tĩnh mạch Cửa, dẫn đến đảo ngược dòng chảy dương tính giả, tùy thuộc vào vị trí tương đối của đầu dò siêu âm. Các động mạch bàng hệ trong gan không điển hình, chủ yếu thấy sau ghép gan hơn là ở bệnh nhân chai gan, cho thấy dòng chảy từ bao gan đến rốn gan và có thể bị nhầm lẫn với dòng chảy hepatofugal trong hệ tĩnh mạch cửa [19]. Hơn nữa, aliasing do  tần số lặp xung thấp là artifact, có thể bị lầm  như một dòng  tĩnh mạch đảo ngược. Porto-systemic shunting hoặc porto-systemic collateral formation gây ra bởi việc mở lại các thông nối porto-systemic vốn bị xẹp. Một số mạch máu  thuộc hệ thống porto-systemic  thông thường bao gồm tĩnh mạch vành vị (vị trái), varices dạ dày, thực quản và tĩnh mạch cạnh thực quản, giãn tĩnh mạch ổ bụng và tĩnh mạch rốn tái lập  (Hình 7), giãn tĩnh mạch cạnh sống-sau phúc mạc và quanh túi mật pericholecystic (Hình 8), quanh cửa periportal (Hình 9), và các tĩnh mạch quanh lách
 perisplenic. Các shunts dạ dày và thận lằch
plenorenal là các ví dụ khác về các varices [20].




Stagnant Portal Flow [không thấy dòng chảy TM Cửa] và Thrombosis

Cao áp tĩnh mạch Cửa  toàn phát  làm trì trệ hoàn toàn  dòng chảy tĩnh mạch Cửa  và  kết hợp với hóa xơ gan nặng nên dòng chảy về phía trước hầu như không thấy (Hình 10).


 Hơn nữa, huyết khối tĩnh mạch Cửa  thường có echo kém và  khó phân biệt trên hình thang độ xám. Do đó, cần thiết  đánh giá MPV trên cả thang xám  và màu Doppler  (Hình 11). 


Không thấy dòng chảy trong các khu vực tắc nghẽn thứ phát cho một khối u nhạt hoặc  u huyết khối. Yếu tố giúp phân biệt  giữa một cục máu đông và một u huyết khối, hoặc tái thông  của một u huyết khối  là xác định xem dòng máu có đập hay không, như trong trường hợp  u huyết khối, hoặc dạng sóng tương tự như dòng chảy tĩnh mạch Cửa,  như đã thấy trong trường hợp tái thông u huyết khối. Các dấu hiệu thứ phát của huyết khối tĩnh mạch cửa khi khảo sát  Doppler  gồm sự hiện diện của tuần hoàn bên quanh tĩnh mạch Cửa, biểu diễn sự xoang hóa tĩnh mạch Cửa, với dòng chảy hướng gan (Hình 12) [21].



Phình tĩnh mạch Cửa

MPV bình thường có khẩu kính  lên đến 13 mm, và phình  tĩnh mạch cửa là giãn nở khu trú dạng túi [saccular] hoặc hình thoi  [fusiform] của hệ tĩnh mạch Cửa. Phình tĩnh mạch cửa có thể bẩm sinh hoặc mắc phải, do suy yếu thành tĩnh mạch với kích thước  ít nhất 20 mm. Các nguyên nhân bao gồm cao áp tĩnh mạch Cửa, viêm tụy, chấn thương và nguyên nhân hậu phẫu [22]. Hình ảnh màu xám thường cho thấy một MPV giãn ra khu trú, trong khi hình ảnh Doppler cho thấy dòng chảy rối hoặc dấu âm dương trong phình mạch, dòng chảy trì trệ, hoặc huyết  khối  liên quan với phình  mạch (Hình 13).


Huyết khối giả

Không thấy dòng chảy có thể là xảo ảnh, thứ phát do setting [thiết lập] Doppler. Ví dụ, một thiết lập thang vận tốc cao có thể bỏ lỡ vận tốc dưới giá trị ngưỡng, gây ra mất dòng chảy. Loại tần số đầu dò, độ sâu mạch máu, vị trí đầu dò / góc Doppler, hoặc bất kỳ cấu trúc cản trở nào gây đo vận tốc không chính xác, dẫn đến vùng dương tính giả  hoặc mất dòng chảy. Do đó, cần chú ý đến các thiết lập  Doppler, bộ lọc, tần số đầu dò sử dụng và góc Doppler phát sóng âm [insonation] để tránh vấn đề này (Hình 14).




Kiểu dòng chảy tĩnh mạch gan ở bệnh nhân xơ gan

Dạng sóng bình thường trong tĩnh mạch gan là ba pha [triphasic] với hai giai đoạn hepatofugal liên quan đến thì  tâm trương của tâm nhĩ và tâm thất (Hình 15). 



Những thay đổi về xơ hoặc viêm cũng như lắng đọng mỡ trong gan có thể tạo ra dòng chảy đơn pha [24]. Trong trường hợp chai gan giai đoạn cuối, cấu ​​trúc gan méo dạng  làm giảm đáng kể khẩu kính hoặc không thấy các tĩnh mạch gan [25]. Những thay đổi dạng sóng sớm ở bệnh nhân chai gan bao gồm làm phổ rộng ra  và làm giảm sóng bình thường, chảy ngược [retrograde], sóng tâm thu của dạng sóng tĩnh mạch gan [26]. Sau đó, mô hình dạng sóng ba pha bình thường có thể bị giảm hoặc thay thế bằng kiểu đơn pha (Hình 16).



Do đó, dạng sóng tĩnh mạch gan đơn pha cho thấy tình trạng cao áp tĩnh mạch Cửa. Những thay đổi về tuần hoàn bên cũng có thể ảnh hưởng đến sự hóa xung của tĩnh mạch gan. Sự tồn tại của tĩnh mạch rốn là một phát hiện khá thường xuyên ở bệnh nhân chai gan, làm thay đổi huyết động học của gan. Dòng chảy tĩnh mạch Cửa cũng đã được báo cáo là bị ảnh hưởng bởi sự tồn tại  tĩnh mạch rốn, nhưng trở kháng động mạch gan và dòng chảy không bị ảnh hưởng [27]. Sự giảm phasicity của tĩnh mạch gan cũng liên quan đến hẹp mạch máu gan hoặc huyết khối. Có thêm các yếu tố sinh lý như áp lực trong ổ bụng cao do thủ thuật Valsalva hoặc ngưng hô hấp cuối thì thở ra, có thể dẫn đến dạng sóng đơn pha.


Thay đổi động mạch gan

Không giống như các kiểu dòng chảy tĩnh mạch cửa ở bệnh nhân chai gan, chỉ số trở kháng động mạch gan cũng như các chỉ số động mạch mạc treo tràng trên không tương quan với giai đoạn xơ gan. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân chai gan, bù trừ động mạch gan xảy ra khi dòng chảy tĩnh mạch cửa bị nguy hại [28]. Hơn nữa, sự điều hòa dòng chảy động mạch gan ở bệnh nhân chai gan được duy trì thông qua một cơ chế được gọi là đáp ứng đệm động mạch gan [hepatic arterial buffer response], làm tăng dòng chảy  trong trường hợp này [29].

Tăng Chỉ số Trở kháng RI

Trở kháng động mạch gan thay đổi với giá trị tăng áp lực tĩnh mạch Cửa [30]. Thật không may, chỉ số trở kháng động mạch gan không tương quan với mức độ chai gan. Không rõ liệu có một thứ tự thời gian có thể dự đoán được giữa những thay đổi trong động mạch gan và những thay đổi trong flow tĩnh mạch cửa hay không [31,32]. Độ đặc hiệu và độ nhạy của chỉ số  trở kháng động mạch gan (RI) lớn hơn 0,77 để dự đoán chai gan thấp lần lượt ở mức 70% và 68% [33]. Trường hợp duy nhất có ích của RI được tìm thấy trong ca suy gan tối cấp do viêm gan siêu vi cấp tính: RI lớn hơn 0,74 có độ nhạy 84% và độ đặc hiệu 94% cho một suy gan tối cấp [34]. Không tìm thấy giá trị tiên đoán nào trong trường hợp chai gan mãn tính. Chúng ta biết rằng có sự thay đổi đáng kể trong việc lấy mẫu RI, điều này có thể góp phần vào việc thiếu khả năng dự đoán và kết hợp với mức độ chai gan của RI [35]. Đánh giá RI trong trường hợp thải ghép gan cũng có giá trị tiên đoán kém của việc thải ghép xấu đi so với cải thiện [36].

Tăng vận tốc động mạch gan

Ở những bệnh nhân bình thường, động mạch gan là động mạch hệ thống có trở kháng thấp với dạng sóng đơn pha. Vận tốc tâm thu cao nhất xấp xỉ 100 cm / giây. Mặc dù không phải là dấu hiệu đáng tin cậy, trong trường hợp cao áp tĩnh mạch Cửa hoặc huyết khối tĩnh mạch Cửa, cả hai đều làm giảm lưu lượng tĩnh mạch trong gan, tốc độ và vận tốc động mạch có thể tăng lên như một đáp ứng bù trừ (Hình 17) [3].



 Bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch Cửa đã được chứng minh là đã làm giảm chỉ số trở kháng động mạch gan, trong một số trường hợp nhỏ hơn 0,50. Giảm vận tốc dòng chảy tĩnh mạch Cửa với tăng dòng chảy  động mạch gan và tăng vận tốc gây giảm chỉ số mạch máu gan, được chứng minh là có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán chai gan và cao áp tĩnh mạch Cửa [37].


Cirrhosis


https://radiopaedia.org/articles/cirrhosis
Ultrasound is a major screening tool for cirrhosis and its complications. It is also useful to aid in biopsy. Appearances include:
  • surface nodularity: (88% sensitive, 82-95% specific 5)
  • overall coarse and heterogeneous echotexture
  • segmental hypertrophy/atrophy (see above)
    • caudate width: right lobe width >0.65 (43-84% sensitive, 100% specific 5)
    • reduction of the transverse diameter (<30 iv="" left="" lobe="" medial="" mm="" nbsp="" of="" segment="" span="" style="box-sizing: border-box; font-size: 9.72px; line-height: 0; position: relative; top: -0.5em; vertical-align: baseline;" the="">11
  • signs of portal hypertension
    • Doppler flow changes
      • portal venous system
        • enlarged portal vein: >13 mm (42% sensitive, 95-100% specific 6)
        • slow portal venous flow <15 cm="" li="" sec="">
        • reversal or to-and-fro portal venous flow
        • portal venous thrombosis +/- cavernous transformation
        • enlarged SMV and splenic vein: >10 mm
          • note: this should be measured during deep inspiration as size can vary.
        • loss of respiratory variation in SMV and splenic vein spectral Doppler waveforms
        • re-canalisation and hepatofugal paraumbilical venous flow
        • portosystemic collaterals
      • hepatic veins
        • portalisation of hepatic vein waveform
      • hepatic arteries
        • "corkscrew" appearance
        • increased velocity (compensating for decreased portal vein flow)
    • splenomegaly
    • ascites
    • fatty change (variable)
  • Sono-elastography may also be useful to assess the amount of liver fibrosis 12. Suggested values for diagnosis
    • >7 kPa: advanced fibrosis
    • 12.5-15 kPa: cirrhosis
    Contrast-enhanced ultrasound may have a role in diagnosis of cirrhosis:
    • diminished mean hepatic venous transit time is similar to that of perfusion CT 13.

    Thứ Tư, 1 tháng 8, 2018

    Ultrafast Doppler

    Ultrafast Doppler, Jeremy Bercoff.

    UltraFast™ Doppler Presentation : Jeremy Bercoff, PhD (English)


    Download pdf link
    Ultrafast Doppler, Bercoff

    SuperSonic Imagine giới thiệu UltraFast Doppler: kết hợp Pulsed Wave Doppler và Color Flow Imaging


    ....
              Trong  Doppler UltraFast, một số sóng phẳng nghiêng [tilted  plane  waves] được truyền vào môi trường và các echo tán xạ  ngược được kết hợp chung lại để tái tạo thành hình ảnh siêu âm (Bercoff et al, 2011). (Hình 5) Số lượng góc tối đa có thể được sử dụng để tính toán một hình ảnh bị giới hạn bởi tần số lặp xung (PRF Doppler) cần dùng để đo thang vận tốc Doppler mong muốn (thường là thang  tốc độ được người dùng đặt ra).


    trong đó PRFmax là PRF tối đa có thể đạt được cho một chiều sâu hình ảnh nhất định.

    Sử dụng tạo hình UltraFast, thông tin Doppler liên tục và đồng thời thu được trên toàn bộ hình ảnh. Do đó, không giống như Doppler màu quy ước, tất cả các pixel được lấy mẫu tại một tần số  PRF cao một cách liên tục và đồng thời, cung cấp khả năng độc nhất  định lượng dòng chảy đầy đủ tại mỗi điểm ảnh trong hộp màu UltraFast. 
    Trong  thực hành,  một lần khám tiêu biểu  của UltraFast Doppler có thể được chạy từ chế độ hình ảnh Doppler màu quy ước. Sẽ  đạt được clip đầy đủ của dữ liệu UltraFast Doppler (thường từ 2 đến 4 giây) và máy dừng.  Sau đó, người dùng có thể,  hồi cứu, xem lại clip hình ảnh lưu lượng màu UltraFast, chọn (các) khung hình phổ tốt nhất  và thực hiện phân tích phổ đầy đủ ở mọi pixel của hộp màu.
    Phân tích  phổ UltraFast hồi cứu lần đầu có khả năng so sánh lưu lượng phổ và đo tốc độ từ nhiều vị trí đồng thời và do đó tương ứng với cùng chu trình tim và hiển thị hoàn toàn  đồng bộ với thời gian.

    UltraFast Doppler cung cấp:
    • Cải thiện đáng kể hiệu suất tạo hình ảnh lưu lượng màu về độ nhạy và độ ly giải theo thời gian.
    • Mô hình Doppler mới bằng cách hợp nhất các chế độ Doppler  xung  và PW Doppler màu trong một lần khám định lượng đầy đủ, làm đơn giản hóa quy trình làm việc, giảm thời gian khám và  nâng cao khả năng đo lường và trực quan.

    Tăng cường tạo hình Doppler màu
    Tạo hình Doppler màu quy ước cung cấp tốc độ giới hạn khung hình (thường là 20 Hz) và thỏa điều kiện giữa kích thước hộp màu và độ phân giải thời gian. Hình 7 cho thấy hai khung Doppler màu quy ước từ động mạch đùi, thêm  với các khung tương ứng thu được bằng UltraFast Doppler.



    Trong ví dụ này, UltraFast Doppler thể hiện độ nhạy dòng chảy tuyệt vời  và cung cấp tốc độ khung hình trên 80 Hz. Mặt khác, tạo hình Doppler màu quy ước bị  giới hạn ở tốc độ khung hình 19 Hz dẫn đến việc lấy mẫu không đầy đủ các lực dòng chảy underlying, như được minh họa bằng các khung dưới cùng của Hình 7, nơi dòng chảy ngược hoàn toàn được ghi trong khung UltraFast Doppler , nhưng  bị mất ở  Doppler màu quy ước. Ví dụ này cho thấy tốc độ khung hình hạn chế có thể làm mất thông tin, là  một vấn đề lớn trong bối cảnh bệnh lý dòng chảy.
    Ultra Doppler UltraFast cho phép tăng tỷ lệ khung hình lên gấp 5 đến 10 lần so với Doppler màu quy ước, thường từ  60 đến 200Hz, mà không làm mất trường nhìn hoặc độ ly giải không gian. Nhờ những cải tiến này, lực dòng chảy phức tạp và sự kiện dòng chảy thoáng qua có thể  được khảo sát chính xác hơn, dẫn đến đánh giá huyết động học các trường hợp hẹp lòng mạch đáng tin cậy hơn.
    So với hình ảnh Doppler màu thông thường, việc dùng UltraFast Doppler mang lại nhiều lợi ích cho người dùng cuối:
    • Các clips dữ liệu màu được tạo ra với độ nhạy cao và tốc độ khung hình lên đến 10 lần so với các máy quy ước.
    • Chất lượng tăng được duy trì bất kể kích thước hộp màu. Doppler màu quy ước phải thỏa điều kiện giữa tỷ lệ khung hình và kích thước hộp màu. Sử dụng sóng phẳng, toàn bộ khu vực quan tâm có thể được gửi bằng thông tin Doppler màu mà không giảm tốc độ khung hình.
    • Thông tin dòng chảy là nhất quán và đồng bộ trong toàn bộ khu vực tạo hình, vì các tín hiệu Doppler tương ứng với tất cả các điểm ảnh được thu thập cùng một lúc. Ngược lại, các đường Doppler màu quy ước  được thu thập tuần tự, do đó các tín hiệu Doppler ở hai bên của thời gian hiển thị hộp màu bị trễ có thể đạt tới vài trăm mili giây.

    Định lượng dòng chảy bất cứ vị trí nào

    Ngoài  việc tăng hiệu suất hình ảnh dòng chảy, UltraFast Doppler giúp định lượng đầy đủ dữ liệu dòng chảy  mọi nơi trong hình. Người dùng có thể định vị một thể tích mẫu ở bất cứ nơi nào trong vùng quan tâm và hệ thống phản hồi tính toán ngay lập tức và hiển thị đồ thị phổ PW từ vị trí đã chọn. Có thể tính toán và hiển thị tối đa ba đồ thị phổ đồng thời trên hình ảnh như minh họa trong Hình 8.



    Việc  đo đạc có thể được thực hiện độc lập trên tất cả các đồ thị phổ và so sánh với nhau với độ tin cậy cao, vì tất cả các phổ được tính từ dữ liệu thu được cùng một lúc, trong cùng chu kỳ tim
    Điều quan trọng cần lưu ý là kết quả phân tích phổ UltraFast tương đương số lượng với kết quả khám PW Doppler quy ước được thực hiện trong cùng điều kiện. Hình 9 cho thấy sự so sánh giữa vận tốc tâm thu cao nhất (PSV) và  vận tốc cuối tâm trương (EDV) trong một dòng chảy mô phỏng dòng chảy động mạch cho cả hai kỹ thuật (PW quy ước và UltraFast Doppler). So sánh này chứng minh rằng vận tốc PSV và EDV có tương quan tuyệt vời trên một khoảng các vận tốc.




    Ví dụ cuối cùng, Hình 10 hiển thị kết quả UltraFast Doppler từ động mạch đùi và tĩnh mạch (giống như Hình 7), mô tả dòng chảy động mạch và tĩnh mạch tương ứng với một khung màu cho trước (trên cùng) và mô tả lại đầy đủ dòng chảy bên trong mỗi mạch máu trong hai đồ thị phổ UltraFast (dưới).


    KẾT LUẬN:
     UltraFast là một công nghệ đột phá giúp cải tiến hiệu suất đáng kể và khả năng đổi mới của siêu âm y khoa. UltraFast Doppler là sự kết hợp của tạo hình UltraFast và kỹ thuật Doppler, giữ lại những ưu điểm của Doppler màu và PW Doppler mà không có những nhược điểm cố hữu. UltraFast Doppler cung cấp hình ảnh lưu lượng tốc độ cao và độ nhạy cao cho phép hiển thị trực quan các sự kiện phức tạp và thoáng qua, cộng với việc định lượng chính xác và so sánh vận tốc dòng chảy thông qua toàn bộ khu vực ảnh dựa trên phân tích toàn bộ đồ thị phổ. Do những đặc điểm này, UltraFast Doppler làm đơn giản hóa đáng kể quy trình làm việc của khám Doppler và giảm thời gian cần thiết để hoàn thành. Các tính năng và khả năng của UltraFast Doppler mới hiện đang được phát triển, điều này chắc chắn sẽ nâng cao tiện ích lâm sàng của tạo  hình Doppler hơn nữa.

    Xem thêm:





    SIÊU ÂM DOPPLER CỰC NHANH CÁC MẠCH MÁU GAN NHẬN




    Abstract

    Purpose:

    The purpose of this study was to investigate the value of UltraFast Doppler ultrasonography (US) for evaluating hepatic vessels in liver recipients.

    Methods:

    Thirty-nine liver Doppler US sessions were conducted in 20 liver recipients. Each session consisted of UltraFast and conventional liver Doppler US in a random order. We compared the velocities and phasicities of the hepatic vessels, duration of each Doppler study, occurrence of technical failures, and differences in clinical decisions.

    Results:

    The velocities and resistive index values of hepatic vessels showed a strong positive correlation between the two Doppler studies (mean R=0.806; range, 0.710 to 0.924). The phasicities of the hepatic vessels were the same in both Doppler US exams. With respect to the duration of the Doppler US exam, there was no significant difference between the UltraFast (251±99 seconds) and conventional (231±117 seconds) Doppler studies (P=0.306). In five poor breath-holders, in whom the duration of conventional Doppler US was longer, UltraFast Doppler US (272±157 seconds) required a shorter time than conventional Doppler US (381±133 seconds; P=0.005). There was no difference between the two techniques with respect to technical failures and clinical decisions.

    Conclusion:

    UltraFast Doppler US is clinically equivalent to conventional Doppler US with advantages for poor breath-holders during the post-liver transplantation work-up.

    SIÊU ÂM VÚ và VI VÔI HOÁ

    Microcalcifications are not easily detectable by US, particularly when they are not associated with a mass, but rather lie within normal breast tissue . Because microcalcifications (at around 200 µm) are so small, normal fibroglandular tissues or US speckle artifacts interfere with their visualization. Therefore, mammography-guided tissue diagnoses should be performed for grouped microcalcifications with suspicious morphology.

    ABSTRACT:
    The term "grouped microcalcifications" refers to the smallest arrangement of a relatively few calcifications noted on mammography, and has a wide range of clinical associations. For the pathologic diagnosis of suspicious-looking grouped microcalcifications without an associated mass, a mammography-guided procedure should be considered, because visualization of microcalcifications by conventional ultrasound (US) is limited. A mammography-guided procedure requires radiation exposure, is associated with pain, and is more time-consuming to perform than an US-guided procedure. However, an innovative US technology called MicroPure™ (Toshiba Medical Systems Corp., Tokyo, Japan) imaging improves detection and visualization of microcalcifications. We demonstrate the early clinical experience with and utility of MicroPure US examination of 10 breast lesions involving grouped microcalcifications without a mass on mammography screening.

    Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018

    Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2018

    New Test for Hepatitis B Diagnosis in Africa


    An international research team has developed two inexpensive and simple blood tests to aid in the diagnosis of hepatitis B patients living in underprivileged African regions and are requiring treatment.
    Researchers from Imperial College London, Medical Research Council Unit The Gambia at the London School of Hygiene and Tropical Medicine, and the Pasteur Institute in Paris collaborated with additional African and European institutions to develop an accurate diagnostic score called TREAT-B.
    The score comprises two blood tests for the precise identification of individuals who urgently need treatment for the hepatitis B virus infection.

    One blood test is designed to detect the presence of antigens generated by the virus, while the second test measures enzymes produced by the liver in response to these antigens.
    Upon evaluation, the researchers observed that the score is similar in accuracy to current approaches to identify patients requiring immediate treatment. It is said to cost $20.
    Imperial College London Department of Surgery and Cancer researcher Dr Maud Lemoine said: “These results show that this simple and inexpensive test could be an accurate way to diagnose patients in need of hepatitis B treatment in countries with limited resources.
    “This could potentially help diagnose and subsequently treat thousands of people across Africa.”
    The TREAT-B score was developed using data from more than 800 hepatitis B patients under the PROLIFICA (Prevention of Liver Fibrosis and Cancer in Africa) study.
    To validate the tests, the team used data from African patients in Senegal, Burkina Faso, Germany, France and the UK. The score was found to be 85% accurate in identifying HBV positive patients requiring treatment and 77% in detecting those who do not need treatment.
    While the test is yet to be assessed in larger studies, it is expected to help thousands of patients who need life-saving treatment.
    The researchers plan to further develop TREAT-B as a finger-prick test in order to enable faster results.

    Thứ Hai, 23 tháng 7, 2018

    Adult Intrathoracic Kidney




    Discussion

    Thoát vị Bochdalek (khiếm khuyết sau-ngoài, thoát vị màng phổi-phúc mạc) được Bochdalek mô tả đầu tiên vào năm 1848, là một khiếm khuyết bẩm sinh cơ hoành phía sau ngoài, làm cho tạng bụng thoát vị vào lồng ngực, do ống màng phổi-phúc mạc không đóng lúc 8 tuần tuổi thai, là thông nối nguyên thủy giữa màng phổi và khoang bụng. Thường xảy ra bên T (80%), bên P chỉ 20% do bên P ống màng phổi-phúc mạc đóng lại sớm hơn hoặc do thùy đuôi gan làm hẹp ống màng phổi-phúc mạc P.
    Thoát vị Bochdalek 2 bên hiếm thấy, thường là bẩm sinh  và gây suy hô hấp sớm lúc mới sinh. Thường tạng thoát vị là mạc nối lớn, ruột, lách, dạ dày, thận, tụy bên T, và một phần gan bên P. Do bị chèn ép gây giảm sản phổi thường trẻ sơ sinh có triệu chứng lúc sinh.
    Tuy vậy một ít ca không có triệu chứng cho đến trưởng thành và có dự hậu tốt hơn.
    Ở người lớn, như trẻ em, phần lớn ở bên T (85%), thường có triệu chứng dạ dày ruột mạn tính như đau tái hồi, nôn ói và đầy bụng sau ăn. Khó thở mạn tính, tràn dịch màng phổi và đau ngực là những triệu chứng và hội chứng lồng ngực trong bệnh cảnh này.
    Chẩn đoán đòi hỏi tính biện luận cao và xác định dựa vào hình ảnh học. Ở người lớn, hầu hết được chẩn đoán ngẩu nhiên khi mổ cấp cứu do tạng bị xoắn. Trong khi thoát vị Bochdalek có triệu chứng cần mổ cấp cứu, thoát vị Bochdalek không triệu chứng được mổ chậm hơn sau nhiều ngày hay nhiều năm tùy thể trạng bệnh nhân. Khối thoát vị lớn nên được mổ để tránh biến chứng.
    Thận lạc chỗ thường xảy ra 1 trên 1.000 ca sinh ra, nhưng chỉ có 1 trên 10 ca được chẩn đoán. Thường được phát hiện tình cờ khi mổ hoặc với phim X-quang không liên quan gì với thận lạc chỗ. Với xuất độ ít hơn 0,01%, thận trong lồng ngực có ít hơn 5% trong các ca thận lạc chỗ, chiếm tần suất thấp nhất trong các ca thận lạc chỗ. Ca thận trong lồng ngực được chẩn đoán do Wolfromm 1940. Nói chung, thận trong lồng ngực xảy ra ở nam (63%) nhiều hơn ở nữ (37%). Có 4 loại thận trong lồng ngực: với cơ hoành kín, lồi cơ hoành, thoát vị hoành (bẩm sinh hoặc mắc phải như thoát vị Bochdalek), và rách cơ hoành do chấn thương với thận lạc chỗ. Liên quan giữa thoát vị Bochdalek và thận trong lồng ngực vẫn chưa rõ, với xuất độ thấp hơn 0,25%. Nguồn gốc phôi thai vẫn còn tranh cãi. Nhiều tác giả giả định rằng có cả bất thường của hiện tượng dính ống màng phổi-phúc mạc hoặc thận di chuyển cao bất thường do chậm trễ của giai đoạn trung thận

    Nói chung thận trong lồng ngực ở trong khoang ngực, và không ở trong khoang màng phổi. Cuống mạch máu và niệu quản thường dài hơn  trường hợp thận bình thường, và đi ra khỏi khoang màng phổi qua lỗ Bochdalek. Hầu hết thận trong lồng ngực không có triệu chứng và diễn tiến lành tính. Thường thận trong lồng ngực có rốn thận xoay ra sau, niệu quản dài, nguyên ủy mạch máu ở cao và cực dưới thận nghiêng vào trong. Mặc dù vị trí bất thường, chức năng thận vẫn đầy đủ, không thiểu sản, không phì đại thận đối bên, và không tắc đường tiểu dưới. 
    Kết hợp giữa thoát vị Bochdalek với thận lạc chỗ trong lồng ngực rất hiếm. Nhấn mạnh rằng tình huống này cần chẩn đoán phân biệt với khối u trong ngực phần thấp.
    ....

    Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2018

    Ectopic Intrathoracic Kidney


    THẬN LẠC CHỖ TRONG LỒNG NGỰC

    BS HỒ CHÍ TRUNG, BS NGUYỄN VĂN CÔNG, BS PHAN THANH HẢI

    ABSTRACT: Ectopic intrathoracic kidney is a rare entity in literature. But ultrasound could reveal easily an intrathoracic mass while chest X-rays evaluate a chest mass with difficulty.

    Bệnh nhân : Nữ 61 tuổi ở Bình Dương đến khám  kiểm tra sức khỏe vì 2 tháng trước chị gái chết vì K phổi.
    X QUANG PHỔI: thấy tổn thương dạng khối choán chỗ, kích thước : 11x 5cm,
    hình bầu dục, giới hạn rõ, ở vùng sau dưới phổi trái.

    SIÊU ÂM: Thận lạc chỗ nằm ở cực trên lách, khó xác định trên hoành hay dưới hoành.



    CT SCAN: Thấy thận trái lạc chỗ kèm thoát vị hoành trái lên khoang ngực trái.


    CT ANGIO:Từ xuất phát ở vị trí bình thường động mạch thận trái đi lên nuôi thận T lạc chỗ. Chức năng bài tiết thận trái bình thường.


    KẾT LUẬN
    Siêu âm Medic Cần thơ phát hiện cấu trúc thận lạc chỗ trên lách
    Với CT scan  CT angiocuống thận  vị trí trong lồng ngực được 
    xác định   thuyết phục hơn
    Đây  ca thận lạc chỗ trong lồng ngực hiếm gặp cần phối hợp các 
    phương tiện chẩn đoán hình ảnh để có chẩn đoán đúng.
    như X-Quang, CT  siêu âm.KẾT  LUẬN
    TÀI LIỆU THAM KHẢO:
    1/ Ectopic intrathoracic kidney: A case report and literature review: 
    Amit Gupta, Ravishankar, Pillenahalli Maheshwarappa, Hemant Jangid ,
    Mangi Lal Meena, Hong Kong Journal of  Nephrology (2013) 15, 48e50
    2/ RARE RENAL ECTOPIA IN CHILDREN ! INTRATHORACIC
     ECTOPIC KIDNEY: Wydawnictwo  Aluna Agnieszka Szmigielska ,
     Aleksandra Księżopolska , Maria Roszkowska-Blaim , 
    Michał  Brzewski , Grażyna Krzemień,  Developmental Period
     Medicine, 2015;XIX,2 © IMiD.