Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 5 tháng 8, 2010

SIÊU ÂM ĐO BỀ DÀY VỎ THẬN / Renal Cortical Thickness Measured at Ultrasound

AJR 2010; 195:W146-W149

© American Roentgen Ray Society

SIÊU ÂM ĐO BỀ DÀY VỎ THẬN TRONG ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẬN MẠN TÍNH
Renal Cortical Thickness Measured at Ultrasound: Is It Better Than Renal Length as an Indicator of Renal Function in Chronic Kidney Disease?, Michael D. Beland, Nicholas L. Walle, Jason T. Machan and John J. Cronan

1 Department of Diagnostic Imaging, Rhode Island Hospital, Warren Alpert Medical School of Brown University, 593 Eddy St., Providence, RI 02903.

2 Departments of Biostatistics and Research, Orthopaedics, and Surgery, Rhode Island Hospital, Warren Alpert Medical School of Brown University, Providence, RI.

OBJECTIVE. Mục tiêu nghiên cứu là xác định tương quan giữa bề dày vỏ thận hay chiều dài thận đo bằng siêu âm với mức độ tổn thương thận mạn tính.


MATERIALS and METHODS. Từ 10-12/2007, có 25 bệnh nhân (12 nam và 12 nữ, tuổi trung bình là 73) được xác định là bệnh thận mạn tính nhưng chưa thẩm tách thận (dialysis, chạy thận nhân tạo). Các bệnh nhân này ở cùng bệnh viện và được siêu âm thận và định lượng creatinines 3 lần trong 90 ngày. Lượng creatinines thấp nhất được dùng để đánh giá tốc độ lọc cầu thận (estimated glomerular filtration rate, eGFR) dùng cả công thức Cockcroft-Gault (CG) và Modification of Diet in Renal Disease Study (MDRD). 3 người làm siêu âm đều mù với kết quả chức năng thận. Bề dày vỏ thận được đo qua mặt cắt sagittale qua tháp thận thẳng góc với vỏ thận. Chiều dài thận đo từ cực này đến cực kia.Tương quan tuyến tính được dùng để phân tích thống kê.

       Bề dày vỏ thận (cortical thickness) là khoảng cách giữa bao thận và bờ viền ngoài của tháp thận.
Bề dày chủ mô thận (parenchymal thickness) là khoảng cách giữa bao thận và đường viền của xoang thận.

RESULTS. Bề dày vỏ thận trung bình là 5,9mm (3,2-11mm), Chiều dài thận trung bình là 10cm (7,2-12,4mm). Creatinine tối thiểu trung bình là 2,1mg/dL. Tốc độ lọc cầu thận là 34,8mL/min (10,6-99,4mL/min). Có tương quan có ý nghĩa thống kê giữa eGFR và bề dày vỏ thận cả ở CG (p = 0.0001) và MDRD (p = 0,005). Có tương quan có ý nghĩa thống kê giữa CG và chiều dài thận (p = 0,003), nhưng không có tương quan giữa MDRD và chiều dài thận (p = 0,08).

CONCLUSION. Bề dày vỏ thận đo bằng siêu âm tương quan chặt  với eGFR hơn với chiều dài thận. Báo cáo bề dày vỏ thận ở bệnh nhân thận mạn tính chưa thẩm tách thận nên được chấp nhận.

Keywords: chronic kidney disease • estimated glomerular filtration rate • renal cortex • renal failure • ultrasound

Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010

GEL SIÊU ÂM và BỆNH LÝ NỘI MẠC TỬ CUNG/Gel instillation sonography advantageous in endometrial evaluation

TRUYỀN NHỎ GIỌT GEL ĐÁNH GIÁ BỆNH LÝ NỘI MẠC TỬ CUNG


Gel instillation sonography advantageous in endometrial evaluation

Reuters Health • The Doctor's Channel Daily Newscast

Khảo sát siêu âm bệnh lý nội mạc tử cung với truyền nhỏ giọt gel để làm căng đầy buồng tử cung dễ thực hiện hơn truyền saline là một báo cáo của nhóm tác giả Bỉ. Dr. Thierry Van den Bosch và cộng sự, University Hospitals Leuven, cho biết khó mà giữ cho căng tốt buồng tử cung với saline và có thể gieo mầm tế bào ác tính vào ổ bụng qua vòi trứng, trong khi truyền gel có thể vượt qua các vấn đề này.

Nhóm nghiên cứu đã truyền nhỏ giọt saline cho 402 phụ nữ bị chảy máu bất thường và truyền nhỏ giọt gel cho 402 người khác. Truyền gel thành công hơn: tỉ lệ thất bại của truyền saline là 5,0% so với truyền gel là 1,8% và tỷ lệ thất bại tương ứng do làm căng không đầy đủ buồng tử cung là 1,5% (saline) so với 0,3% (gel).

 Về bệnh học, kết quả tăng sản nội mạc, pôlyp, ung thư hay nhân xơ lòng tử cung là 49% của truyền saline so với truyền gel là 40,2%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Độ nhạy lần lượt là 77,8% và 85%. Giá trị tiên đoán âm tính là 79,1% của truyền nhỏ giọt saline và 88,6% của truyền nhỏ giọt gel. Bất lợi (drawback) của truyền gel là khả năng chẩn đoán lầm máu cục là polyp vì saline vốn được dùng làm sạch cục máu đông.



Nhìn chung, cả hai kỹ thuật đều khả thi và chính xác. Tuy nhiên, "Gel có một số lợi thế hơn saline: làm đầy ổn định buồng tử cung, không cần thông bóng (balloon catheters), tiện nghi bệnh nhân được cải thiện, và, về lý thuyết, nguy cơ thấp hơn lan truyền trong phúc mạc tế bào ác tính. Vì vậy, nên sử dụng truyền nhỏ giọt gel thay vì truyền nhỏ giọt saline. "

Reference:

Detection of endometrial pathology using saline infusion sonography versus gel instillation sonography: a prospective cohort study, Fertil Steril 2010.