Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

CÁCH PHÁT HIỆN TRÀN KHÍ MÀNG PHỔI BẰNG SIÊU ÂM

CÁCH PHÁT HIỆN TRÀN KHÍ MÀNG PHỔI BẰNG SIÊU ÂM

(video clip từ Phillips Perera, Emergency Ultrasound, NewYork Presbyterian Hospital, Columbia University Medical Center).

Từ Gebhard Mathis (editor), Chest Sonography, 3rd edition, © Springer-Verlag Berlin Heidelberg 2011.


-Kỹ thuật khám: Dùng đầu dò linear (hoặc đầu dò khám bụng), đặt đầu dò dọc trên đường giữa đòn và khoảng gian sườn 3-4, rồi di chuyển đầu dò xuống dưới để tìm sliding sign.
Tràn khí màng phổi (pneumothorax) thường gặp sau phẫu thuật tim ngực. Mất dấu hiệu phổi trượt (sliding sign) là dấu hiệu cơ bản.
Phổi trượt là đường chuyển động nằm ngang của màng phổi đồng bộ với nhịp thở. Là đường echo dày ở mặt sau các cung sườn có trạng thái trượt do lá thành và lá tạng màng phổi tạo nên; nếu có trạng thái trượt được xem là có sliding sign bình thường và được xem là không có tràn khí màng phổi. Ở M-mode, phổi trượt có dấu hiệu siêu âm đơn giản, seashore sign (H.1.A) hay positive motive lung beach. Mất dấu hiệu phổi trượt có dấu đặc trưng: stratosphere sign (H.1.B) hay bar code sign, đối lập với seashore sign bình thường. Tuy nhiên mất dấu phổi trượt không có nghĩa là bị tràn khí màng phổi, mà còn có thể gặp ở thông khí quá mức (high-frequency ventilation), xẹp phổi rộng, dính màng phổi, xơ phổi nặng...).

Tràn khí màng phổi còn có dấu hiệu siêu âm phổi khác: mất B-lines; có B-line giúp loại trừ ngay tràn khí màng phổi.

Tràn khí màng phổi có dấu hiệu siêu âm phổi duy nhất có ý nghĩa bệnh lý: lung point hay lead point với độ chuyên biệt 100% và độ nhạy khoảng 65%. (H.1.C). Là vùng chính xác trên thành ngực, nơi xuất hiện lại chuyển động phổi trượt thay thế cho kiểu stratosphere sign (bar code sign) trên M-mode, gặp ở tràn khí màng phổi không hoàn toàn (incomplete pneumothorax).




H.1: A=M-mode phổi bình thường: seashore sign (dấu bờ biển). Các lớp nông kém chuyển động tạo thành các đường nằm ngang (sóng). Xảo ảnh sâu do mô phổi chuyển động trượt tạo thành dạng cát.

B=Đường màng phổi là những đường nằm ngang biểu hiện cho tình trạng không chuyển động ở ngang màng phổi và cả bên dưới, là stratosphere sign (dấu xếp tầng) hay bar code sign (dấu mã vạch). Dấu xếp tầng xảy ra khi phổi mất chuyển động trượt bình thường khi bị tràn khí màng phổi (pneumothorax, PTX).

C=Lung point hay lead point ở M-mode: thay đổi đột ngột từ seashore sang stratosphere sign hay bar code sign (mủi tên). Là vùng chính xác trên thành ngực khi chuyển động trượt bình thường của phổi tái xuất hiện thay thế cho PTX pattern. Là điểm lá thành và lá tạng màng phổi tiếp xúc lại với nhau (cải biên từ Lichtenstein và cs, 2000).

Xem thêm comet-tail-artifact-trong-chẩn-đoán-tràn-khí-màng phổi


Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2011

HÌNH ẢNH SIÊU ÂM LAO THẬN

Hình ảnh siêu âm B-mode của lao thận đa dạng nhưng không có tính chuyên biệt. Có 3 dạng thường gặp:

- thận nhỏ với bờ lồi hoặc không đều do co rút, không đặc điểm chuyên biệt





- tổn thương u hạt (granulomatous masses) trong chủ mô thận: vùng echo kém, tròn hoặc không, không tăng âm sau; tròn giới hạn rõ có tăng âm sau, gợi ý hoại tử bã đậu (caseation), có tác giả gọi là putty kidney; echo dày có bóng lưng sau do vôi hóa trong vùng hoại tử bã đậu, còn gọi là cement kidney.

* putty = như chất mát tíc [mattic] trét nơi dột, rò rỉ hoặc gắn kính / chất mattic thường là bột phấn trộn với dầu hạt lanh, [paste of chalk and linseed oil for fixing panes of glass] dẻo sệt nhưng cứng lại khi khô sau đó.








- ứ nước hay dịch cặn (mủ), có thể có xoang thận dày vách với giảm âm sau.



Một vài bàn luận thêm với

+ Tổn thương u hạt (caseous masses):

-echo kém có thể là ung thư hoại tử có thể là lymphoma. Nếu là lymphoma thì thận lớn ra và thường 2 bên. Nếu có tổn thương lymphoma cùng lúc nơi khác thì càng chắc chắn.

-u hạt có truyền âm thường phải nghĩ là u hoại tử bên cạnh tổn thương lao có caseum nhày.

-u hạt echo dày có bóng lưng có thể là dãn ống thận trước đài thận

-u hạt đặc có thể là hang lao xơ hóa.


+ Lao thận thường làm dày xoang thận (mucosal thickening) gây ra giảm âm sau và dãn xoang bài tiết mà không dãn bể thận nhưng phải phân biệt với:



-sỏi bể thận

-u đường bài xuất đặc biệt là u thâm nhiễm bể thận cho hình ảnh giống như lao thận trên siêu âm và CT. Siêu âm có lợi thế nếu như tìm thấy triệu chứng thận khác như hang lao và tổn thương đa ổ.

Cần kết hợp với IVP để chẩn đoán sát hợp hơn. Nếu nghi ác tính nên chọc hút dưới hướng dẫn siêu âm hay CT.

Vì hình ảnh siêu âm lao thận không đặc hiệu và đa dạng, nên luôn dựa vào lâm sàng : đau hông lưng, đau vùng trên mu, tiểu thường, đái đêm, đái mủ, đái máu đại thể và vi thể kéo dài.

Tài liệu tham khảo chính:

Burton D Rose:Renal Tuberculosis, http://uptodate.com
VPS  Punia,  Satish  Kumar:Cement  Kidney:  Renal  Tuberculosis, JIACM  2008;  9(3):  216-7
Michael S. Gibson, Michael L. Puckett, Mark E. Shelly: Renal Tuberculosis, RadioGraphics 2004; Volume 24, Number 1 : 251–256
J B. EASTWOOD, C M. CORBISHLEY, and J M. GRANGE: Tuberculosis and the Kidney, J Am Soc Nephrol, 2001, 12: 1307–1314.