Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

PANCREATIC ALLOGRAFTS: ULTRASOUND EVALUATION

ABSTRACT
Objectives— The purposes of this study were to develop a protocol for evaluating pancreas allografts, to describe a method for successfully studying pancreatic transplants, and to determine whether the resistive index (RI) of the splenic artery is a useful differentiator between complications.
Methods— We retrospectively analyzed clinical, surgical, procedural, and radiologic reports in 51 consecutive patients undergoing 182 sonographic examinations during a 4.5-year period. Complications included splenic vein thrombosis, rejection, and pancreatitis. We obtained RIs in normal and complication groups and performed mixed model regression methods and receiver operating characteristic analysis.

Results— The mean RI ± SD for normal transplants was 0.65 ± 0.09; for splenic vein thrombosis, 0.76 ± 0.09; after resolution of splenic vein thrombosis, 0.73 ± 0.09; during rejection, 0.94 ± 0.09; after successful treatment of rejection, 0.74 ± 0.09; for pancreatitis, 0.83 ± 0.09; and for fluid collections, 0.66 ± 0.09. There was a statistically significant difference (P < .05) between normal transplants and splenic vein thrombosis (P = .0003), rejection (P < .0001), and pancreatitis (P = .04). A significant difference was also seen between rejection and successful treatment thereof (P < .0001).
Conclusions— We developed a protocol that allowed us to successfully evaluate 96% of the pancreatic allografts studied. Furthermore, our data show that the RI can be used as a therapeutic guide. When the RI is less than 0.65, the risk of vascular abnormalities is very low; however, fluid collections may be present. When greater than 0.75, splenic vein thrombosis, pancreatitis, or rejection should be suspected. When greater than 0.9, rejection must be seriously considered.

TÓM TẮT (BS THỤC QUYÊN dịch)

-          Mục tiêu: để phát triển giao thức [protocol] đánh giá ghép tụy, để mô tả phương pháp nghiên cứu thành công cho ghép tụy và để quyết định là chỉ số trở kháng RI của ĐM lách có hữu ích hay không trong phân biệt giữa các biến chứng.

-          Phương pháp: phân tích hồi cứu lâm sàng, phẫu thuật, thủ thuật và báo cáo hình ảnh lần lượt ở 51 bệnh nhân. Có 182 cuộc khám siêu âm trong suốt 4,5 năm. Những biến chứng bao gồm huyết khối TM lách, thải ghép và viêm tụy. Chúng tôi ghi nhận RI trong nhóm ghép bình thường và nhóm ghép có biến chứng và thực hiện thống kê mô tả bằng phương pháp hồi quy và phân tích ROC.

-          Kết quả: RI trung bình +/- SD cho nhóm ghép bình thường là 0,65 +/- 0,09; cho huyết khối TM lách là 0,76 +/- 0,09; sau giải quyết huyết khối TM lách là 0,73 +/- 0,09; trong thải ghép là 0,94 +/- 0,09; sau điều trị thành công thải ghép là 0,74 +/- 0,09; trong viêm tụy là 0,83 +/- 0,09 và tụ dịch 0,66 +/- 0,09. Có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa nhóm ghép bình thường và huyết khối TM lách, nhóm thải ghép và viêm tụy. Sự khác nhau đáng kể cũng được thấy giữa nhóm thải ghép và nhóm điều trị thành công.

-          Kết luận: chúng tôi đã phát triển giao thức cho phép đánh giá thành công 96% những trường hợp ghép tụy. Xa hơn, dữ liệu chúng tôi cho thấy RI có thể sử dụng trong hướng dẫn điều trị

Khi RI < 0,65, nguy cơ của bất thường mạch máu là rất thấp. Tuy nhiên tụ dịch có thể xảy ra.

Khi RI > 0,75 huyết khối TM lách, viêm tụy hay thải ghép nên được nghi ngờ.

Khi RI > 0,9 cần xem xét vấn đề thải ghép nghiêm trọng.


TVS for ASSESSMENT of CYSTITIS GLANDULARIS in WOMEN

ABSTRACT

Objectives— The aims of this retrospective study were to determine the accuracy of transvaginal sonography for diagnosing cystitis glandularis in women and to describe the sonographic features of cystitis glandularis masses in confirmed cases.

Methods— For 90 patients with clinically or sonographically suspected cystitis glandularis, we retrospectively reviewed the imaging files. Twenty-one cases were confirmed by histopathologic examination. All patients had undergone transvaginal sonography to evaluate bladder masses in a standardized manner no more than 1 week before histopathologic examination. Findings from preoperative transvaginal sonography of the masses were described and compared with histopathologic findings.

Results— Cystitis glandularis masses were correctly identified on transvaginal sonography in 15 of 21 cases (71.4%), whereas 6 of 21 (28.6%) had negative preoperative sonographic findings. The sensitivity, specificity, and positive and negative predictive values of transvaginal sonography for diagnosing cystitis glandularis were 71.4% (15 of 21), 92.8% (64 of 69), 75.0% (15 of 20), and 91.4% (64 of 70), respectively, and the total accuracy was 87.8% (79 of 90).

Conclusions— Detection of cystitis glandularis masses by transvaginal sonography depends on the mucosal surface roughness, bladder wall thickness, outer bladder wall continuity, mixed echoes, sparse vessels, and mobility of the cervix. Transvaginal sonography is a promising modality for identifying cystitis glandularis masses.

o               © 2012 by the American Institute of Ultrasound in Medicine

TÓM TẮT (BS THỤC QUYÊN dịch)


-          Mục tiêu: Nghiên cứu hồi cứu để xác định độ chính xác của siêu âm ngã âm đạo ( TVS) trong chẩn đoán viêm bàng quang dạng tuyến (CG) ở phụ nữ và để mô tả bản chất siêu âm của những khối CG trong những ca đã được xác minh.  

-          Phương pháp: 90 bệnh nhân có lâm sàng hay dấu siêu âm gợi ý CG được hồi cứu những hình ảnh ghi lại. 21 ca được xác định bằng mô bệnh học.Tất cả những bệnh nhân đã được làm TVS để đánh giá những khối ở bàng quang theo tiêu chuẩn, thời điểm không quá 1 tuần trước khi đánh giá mô bệnh học. Những dấu hiệu từ TVS trước phẫu thuật đã được mô tả và so sánh với những dấu hiêu mô bệnh học.

-          Kết quả: Những khối CG đã được nhận diện chính xác bằng TVS ở 15 trong 21 trường hợp ( 71,4%), âm tính  6 trong 21 ca ( 28,6%). Độ nhạy, đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, giá trị dự đoán âm tính và độ chính xác của TVS cho chẩn đoán CG lần lượt là 71,4 % (15/21), 92.8% (64/69), 75% (15/20) và 91,4% (64/70) và 87,8% ( 79/90).

-          Kết luận: Phát hiện CG bằng TVS phụ thuộc sự gồ ghề của bề mặt niêm mạc, độ dày thành bàng quang, sự liên tục với thành bàng quang bên ngoài, độ hồi âm hỗn hợp, mạch máu rải rác và chuyển động của cổ tử cung. TVS là phương thức hứa hẹn cho phát hiện những khối CG.

GHI CHÚ
     Viêm bọng đái dạng nang tuyến có thể ăn sâu vào thành bọng đái; bệnh này hiếm, thường thấy ở tam giác và vùng cổ bọng đái, đôi khi trông giống như bướu hạt (Ngô Gia Hy, Từ điển Niệu học Việt Anh Pháp giảng nghĩa, Nxb Y học, 1992)