Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009

TUBERCULOSIS of the BREAST

Lao vú là bệnh rất hiếm gặp được Astley Cooper mô tả đầu tiên năm 1829.
Hiếm gặp có lẽ do khó chẩn đóan vì hình ảnh dễ lầm với carcinom hoặc áp xe do vi trùng.
Đường lan truyền chính= theo máu, từ hạch nách hoặc trực tiếp từ phổi, màng phổi, trung thất, xương ức, xương sườn.
Thường gặp ở tuổi 20-50, phụ nữ nhiều con và cho con bú. Ít gặp ở thiếu nữ và phụ nữ lớn tuổi. Hiếm khi ở nam giới.
Triệu chứng chung là có cục cứng không đều ở vú và đau. Đau vú và tiết dịch cũng có thể là dấu hiệu lao vú.


Khi bệnh nhân lớn tuổi mắc phải, thể lao dạng nốt của vú có biểu hiện giống với carcinôm vú ngay cả với hình chụp nhũ ảnh nên rất khó được chẩn đoán.

Tiêu chuẩn vàng chẩn đoán là tìm được nguyên nhân gây bệnh Mycobacterium tuberculosis bằng cách nhuộm Ziehl-Neelsen hoặc nuôi cấy. Tuy nhiên phết nhuộm trực khuẩn kháng acid bằng phương pháp Ziehl-Neelsen cho tỉ lệ dương tính thấp. Và phần lớn lao vú chỉ được chẩn đoán chính xác bằng mô học với các tổn thương hoại tử bã đậu (granulomatous).



( Từ CLINICAL CASE REPORT: PRIMARY TUBERCULOSIS of the BREAST  MIMICKING CARCINOMA, BENEDITO BORGES DA SILVA, LINA G. DOS SANTOS, PEDRO VITOR L. COSTA, CLEICILENE GOMES PIRES, AND  ANATOLE SANTOS BORGES, Am. J. Trop. Med. Hyg.,  73(5), 2005, pp. 975–976 Copyright © 2005 by The American Society of Tropical Medicine and Hygiene).


 
HÌNH ẢNH HỌC LAO VÚ=

Các phương tiện hình ảnh học chỉ giúp xác định tổn thương lan rộng hơn là để chẩn đóan vì bệnh có nhiều kiểu khác nhau. Thường có 3 lọai chính = thể nốt (nodular), thể lan tỏa (disseminated) và thể xơ teo (sclerosing), và còn các thể khác nữa.
1. Thể nốt=
- Nhũ ảnh: Vùng đậm độ tròn, bờ không rõ không có halo sign như fibroadenoma.
- Siêu âm: Khối echo kém đường viền rõ hoặc khối dạng nang phức tạp.

2. Thể lan tỏa=
- Nhũ ảnh: mô đặc với da dày.
- Siêu âm= Khối echo kém đường viền rõ.

3. Thể xơ teo=
- Nhũ ảnh: Khối đậm độ đồng nhất với vách sợi và co rút núm vú.
- Siêu âm: Mô vú echo dày với khối khó xác định.

4. Các thể khác=Áp xe vú, Vôi hóa, Xâm lấn ông tuyến, Hạch.

5. Carcinom vú kết hợp với lao vú.

(Hình Nhũ ảnh và Siêu âm Lao vú, từ Imaging of Breast Tuberculosis, Department of Pediatric Radiology, Children's Hospital, Hospital IBN SINA, Rabat, Morroco).




Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2009

HIGH-FREQUENCY ULTRASOUND with ELASTOGRAPHY in BENIGN and MALIGNANT SKIN LESIONS

HIGH-FREQUENCY ULTRASOUND with ELASTOGRAPHY in BENIGN and MALIGNANT SKIN LESIONS

Siêu âm da tần số cao với đo độ đàn hồi giúp phân biệt bệnh da lành tính và ác tính


High-frequency ultrasound với elastography giúp phân biệt các trường hợp bệnh lý da lành và ác tính theo một báo cáo tại RSNA (Radiological Society of North America) 12/02/2009.


Siêu âm tần số cao với elastography có khả năng tăng cường hiệu quả chẩn đoán ung thư da, theo Eliot L. Siegel, M.D., phó chủ nhiệm khoa Radiology của Maryland School of Medicine (UMSM) ở Baltimore. Siêu âm tần số cao với elastography xác định độ lan rộng tổn thương và định lượng được sự phân biệt giữa các tổn thương lành tính và ác tính. Có hơn 1 triệu ca ung thư da mỗi năm tại Mỹ theo Hiệp hội Ung thư Mỹ (American Cancer Society). Melanoma, loại ung thư quan trọng nhất, có 68.720 ca và có 11.590 ca chết trong năm 2009, dù đã biết được chẩn đoán sớm có thể chữa lành với tỉ lệ cao.


Các chuyên gia bệnh ngoài da chẩn đoán các tổn thương da nghi ngờ và sinh thiết dựa trên biểu hiện bề mặt và đặc điểm tổn thương. Nhưng ngay cả những chuyên gia có kinh nghiệm cũng khó phân biệt lành hay ác tính khi khám lâm sàng vì biểu hiện giống nhau của chúng đặc biệt ở giai đoạn sớm. Không phải thường gặp những bệnh nhân có một hoặc nhiều tổn thương có biểu hiện như vậy.


Đồng tác giả Bahar Dasgeb, M.D., ở bộ môn Dermatology của Wayne State University ở Detroit và Pinkus Dermatopathology Lab ở Monroe, Michigan nói ”Chuyên gia bệnh ngoài da có xu hướng sinh thiết các tổn thương bệnh nghi ngờ. Hậu quả là nhiều tổn thương lành tính không cần cũng phải sinh thiết để tránh nguy cơ bỏ sót chẩn đoán melanoma”.


Đo độ đàn hồi giúp phân biệt các tổn thương lành và ác tính không qua biểu hiện thấy được mà bằng cách đo độ đàn hồi hay độ cứng. Vì u ác tính cứng hơn nên elastography khi được kết hợp với siêu âm tần số cao có khả năng tăng độ chính xác của chẩn đoán lâm sàng truyền thống và trong một số ca, loại bỏ việc sinh thiết không cần thiết của tổn thương lành tính. Thủ thuật không xâm lấn, thuận tiện và không mắc tiền.








Trong nghiên cứu có 40 ca với các tổn thương da ác tính và không ác, hay lành tính. U ác gồm squamous cell carcinoma, basal cell carcinoma và melanoma. U lành gồm dermatofibroma, mô sẹo không ung thư, và u mỡ.


Chỉ số đàn hồi (ratio of elasticity) giữa da lành và da cạnh tổn thương được tính để xác định chẩn đoán. Tổn thương dạng nang, không ác tính, có độ đàn hồi cao trong khi u ác kém đàn hồi. Chỉ số đàn hồi (ratio of elasticity) các loại da lành từ trong khoảng 0,04 đến 0,3 cho tổn thương dạng nang và đến trên 10,0 cho tổn thương ác tính.


Nói chung high-frequency ultrasound với elastography giúp chẩn đoán chính xác độ lan rộng và độ sâu dưới tổn thương để điều trị. Dr. Siegel nói “Phần thấy được tổn thương da chỉ là phần nổi tảng băng và hầu hết chuyên gia ngoài da mỗ mù bên dưới cái mà họ thấy trên bề mặt. High-frequency ultrasound có độ ly giải đến mức vi thể và giúp đo kích thước, dạng và sự lan rộng tổn thương trước khi sinh thiết”.