Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2010

PHÁT HIỆN XƠ HÓA GAN BẰNG CÁCH ĐO TỐC ĐỘ TRUYỀN ÂM

PHÁT HIỆN ĐỘ XƠ HÓA GAN BẰNG CÁCH ĐO TỐC ĐỘ TRUYỀN ÂM

Từ Evaluation of Sound Speed for Detection of Liver Fibrosis, Prospective Comparison With Transient Dynamic Elastography and Histology

Bita Boozari, Andrej Potthoff, Ingmar Mederacke, Andreas Hahn, Ansgar Reising, Kinan Rifai, Heiner Wedemeyer, Matthias Bahr, Stefan Kubicka, Michael Manns, and Michael Gebel, J Ultrasound Med 29:1581-1588 • 0278-4297

Các thay đổi của tốc độ siêu âm (sound velocity [SV]) ở gan phản ánh độ cứng của gan và tương ứng với các giai đoạn xơ hóa ở bệnh nhân viêm gan mạn. Tốc độ siêu âm SV cũng tùy thuộc vào đặc điểm đàn hồi của mô.

Đó là mục đích của một nghiên cứu thăm dò tiền cứu ở 50 người tình nguyện khỏe mạnh và 149 bệnh nhân viêm gan mạn với kỹ thuật đo tốc độ siêu âm SV bằng máy Zonare quy ước với đầu dò C5–2-MHz (Zonare Medical Systems, Inc, Mountain View, CA) và đối chiếu với máy FibroScan (TE, 50-Hz vibrator, 5-MHz array). Trong số đó có 84 người được sinh thiết gan xem như yếu tố tham khảo theo hệ thống đánh giá giai đoạn xơ hóa METAVIR. Số liệu thống kê mô tả, phân tích biến số, phân tích đường cong ROC (receiver operating characteristic curve) và phân tích biểu đồ hình hộp (box plot) cũng như phân tích tính lập lại của người khám (intra-operator and interoperator reproducibility) được thực hiện.

Đo tốc độ siêu âm SV

Các bệnh nhân được đo bởi 2 người làm siêu âm hệ tiêu hóa có nhiều kinh nghiệm, mù với kết quả của đo độ đàn hồi gan tức thì (transient elastography, TE) và kết quả sinh thiết gan.

Vì mô được xem như đẳng hướng (isotropic), độ đàn hồi sóng biến dạng (shear wave modulus ) có tương quan với độ đàn hồi Young. Do đó tốc độ siêu âm SV phản ánh chặt chẽ các đặc điểm đàn hồi. Sai số của tốc độ siêu âm SV có ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh (làm mờ) nên cần được hiệu chỉnh. Khác biệt của calibrated SV (1540 m/s) và tốc độ siêu âm thực sự trong vùng ROI (region of interest) gọi là chỉ số tốc độ vùng [zone speed index (ZSI)].

Đo ở thùy gan phải qua khoảng liên sườn khi bệnh nhân nằm ngửa, tay phải dạng tối đa. Vùng ROI ở gan phải dưới bao gan 1cm, có kích thước chuẩn 35x35mm. Khi vùng đích được định vị, người khám ấn nút đo. Chỉ số tốc độ vùng ZSI của vùng ROI do máy xác định; các tốc độ trong khoảng 1400 đến 1650m/s với khoảng giá trị của 10m/s. Mỗi bệnh nhân phải ngưng thở để đo 6 lần và lấy trị số trung bình của tốc độ siêu âm của gan để có độ tin cậy cần thiết.

Kết quả

Tốc độ siêu âm SV 1589 m/s hay cao hơn có nghĩa là gan đã chai (cirrhosis) với độ nhạy cao.
Trong nghiên cứu trên, tốc độ SV trong khoảng 1540 đến 1650 m/s. Giá trị SV± SD khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người khỏe mạnh (1559 ± 11 m/s) và bệnh nhân với F0–F3 (1575 ± 21 mm/s) và F4 (1594 ± 18 m/s) với (P nhỏ hơn 0,001). Để phát hiện chai gan vùng dưới đường cong ROC của SV là 0,80 (khoảng tin cậy 95%, 0,69–0,89). Với cutoff value=1589m/s, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và âm tính lần lượt là 82%, 76%, 70%, và 86%. Độ lập lại là 15% và độc lập với người khám là 19%.


Lợi ích của đo tốc độ siêu âm SV so với đo độ đàn hồi tức thì TE: (1) đo được tốc độ SV ở tất cả bệnh nhân mà không có trở ngại kỹ thuật nào; (2) đo được tốc độ SV các vùng của gan; (3) đo được tốc độ SV với máy siêu âm thường quy mà không phải đầu tư thêm và có thêm thông tin về gan có cấu trúc hạt và các biến chứng ngoài gan; và (4) có lợi ích kinh tế khi khám kiểm tra bệnh nhân viêm gan siêu vi mạn.

Do đó đo tốc độ siêu âm SV là phương pháp mới định lượng xơ hóa gan không xâm lấn đầy hứa hẹn.
--------------------------------------
Zone Sonography Technology

CÔNG NGHỆ SIÊU ÂM VÙNG (Zone Sonography Technology)


Là cách tiếp cận mới để thu thập dữ liệu siêu âm và tạo hình của hãng ZONARE Medical Systems.

Công nghệ này, dựa vào phần mềm,  lấy dữ liệu siêu âm rất nhanh, nhanh 10 lần hơn các máy siêu âm quy ước khác, trong một số nhỏ “vùng” rộng, mỗi vùng chứa dung lượng dữ liệu tương đương với rất nhiều lines trong các máy siêu âm quy ước khác.






Xem = ĐÁNH GIÁ XƠ HÓA GAN BẰNG CÁCH ĐO TỐC ĐỘ TRUYỀN ÂM

Chủ Nhật, 24 tháng 10, 2010

A-LINES, B-LINES and AIR ARTIFACTS


Air artifacts ở siêu âm phổi gồm A-lines (horizontal artifact), B-lines (vertical artifact), B3, B7 lines hoặc multiple (lung rockets).




A lines: Là những đường hyperechogenic nằm ngang cách khoảng đều đặn, vốn là hiện tượng phản âm nhiều lần (reverberations) của đường màng phổi. Những đường này không chuyển động và là xảo ảnh lặp lại. 2/3 các trường hợp phổi bình thường có xảo ảnh này.




B lines: Là những đường dọc, hẹp xuất phát từ đường màng phổi đến bờ xa màn hình siêu âm. Hình ảnh đuôi sao chổi ("comet-tail image") là các đường hyperechogenic dính nhau thành bó có đáy hẹp trải từ đầu dò đến bờ xa màn hình. Xảo ảnh đuôi sao chổi ở nông hơn đường màng phổi ở người khí phế thủng hoặc có nhiều ngoại vật có echo (đạn súng hơi, shotgun pellets). Khi có nhiều B lines thì dùng chữ "lung rockets".


(G.Mathis, Chest Sonography, EFSUMB)

(Hình ảnh đuôi sao chổi ngắn là loại khác; loại này ngắn, rộng, giới hạn rõ, từ đường màng phổi không phải là B lines, có ở người bình thường cũng như trong pneumothorax).





Cơ chế:


Comet-tail artifact xuất hiện khi có khác biệt trở âm đáng kể giữa đối tượng và phần xung quanh đối tượng. Phản xạ của chùm sóng âm tạo nên hiện tượng cộng hưởng. Thời gian trễ giữa hiện tượng phản âm nhiều lần được hiểu là một khoảng cách, tạo ra một trung tâm nguồn tồn lưu, sinh ra một chuổi những mặt phân cách giả cách khoảng. Chùm âm bị bẫy trong hệ thống đóng gây ra hồi âm tới lui không dứt. Đường đi của chùm âm trình bày theo hàm số thời gian. Khi chùm âm gặp điểm tận dưới màng phổi của vách bị dày nó phản xạ với tốc độ 1.450m/s, tạo thành xảo ảnh hợp bởi tất cả các vi phản xạ. Mỗi phản xạ của chùm âm thể hiện trên màn hình ẩn sau phản xạ trước đó. Mỗi phản xạ cách nhau khoảng 1mm.










(GA Shaath, Chest Ultrasound for Critically Ill, 2010)
Những mặt phân cách hình thành, trên màn hình, như những tia laser có đáy hẹp tới bờ xa màn hình. Ở bề mặt phổi là khí, có trở kháng khác với xương, nhu mô và nước. Comet-tail artifact được diễn tả có đặc điểm sau: liên quan với cấu trúc nhỏ giàu nước, thấp hơn độ ly giải của chùm siêu âm (khoảng 1mm), được bao bọc bởi khí (tạo nên một high impedance gradient). Không có trong điều kiện bình thường và chỉ hiện diện trong hội chứng phế nang-mô kẽ (alveolar-interstitial syndromes). Yếu tố này phải hiện diện ở và hoàn toàn trên bề mặt phổi, và mỗi yếu tố cách nhau khoảng 7mm. Thường thấy ở khoảng gian sườn cuối ở người bình thường. Phù phổi cấp và bệnh lý mô kẽ mạn tính gây ra xảo ảnh này.

 Phân loại air artifacts như sau:


Trên đường màng phổi: khí, ngoại vật


Dưới đường màng phổi:


Nằm ngang- A lines


Dọc – Comet tail


Ngắn, rõ - bình thường


Dài, rõ – B lines (từ đường màng phổi và đến bờ xa màn hình)


Đơn độc


Nhiều - Lung rockets














Tài liệu tham khảo

Lichtenstein DA. Rev Pneumol Clin. 2007 Apr;63(2):81-3. French.

Lichtenstein DA. Crit Care Med. 2007 May;35(5 Suppl):S262-7. Review.

Daniel A. Lichtenstein, Gilbert A. Meziere, Jean-Francois Lagoueyte, Philippe Biderman, Ivan Goldsteinand Agnes Gepner, Chest 2009: A-Lines and B-Lines:Lung Ultrasound as a Bedside Tool for Predicting Pulmonary Artery Occlusion Pressure in the Critically Ill

Thứ Ba, 5 tháng 10, 2010

SIÊU ÂM ĐÀN HỒI SÓNG BIẾN DẠNG SWE KHẢO SÁT ĐỘ CỨNG CỦA CƠ LÚC ĐANG CO

Từ REAL-TIME VISUALIZATION of MUSCLE STIFFNESS DISTRIBUTION with ULTRASOUND SHEAR WAVE IMAGING DURING MUSCLE CONTRACTION, Minoru Shinohara, Karim Sabra, Jean-Luc Gennisson, Mathias Flink and Mickael Tanter, MUSCLE & NERVE Month 2010 (Accepted 10 March 2010).


TÓM TẮT:
Một kỹ thuật siêu âm đo độ đàn hồi sóng biến dạng để định lượng và khảo sát độ biến dạng bằng cách áp dụng lực bức xạ siêu âm (ultrasound radiation force) từ xa và theo dõi kết quả của dao động vi mô (microvibration) của mô mềm bằng hình ảnh học siêu âm siêu nhanh (ultrafast ultrasound imaging). Đây là dữ liệu ban đầu phát hiện được độ cứng khu trú của cơ phân bố trong lúc và giữa tình trạng nghỉ và co cơ với các độ dài cơ khác nhau. Kỹ thuật này có thể giúp chẩn đoán tình trạng cơ chấn thương và các bệnh lý thần kinh cơ.


Độ cứng khu trú của cơ (Young's modulus) được mã màu chồng lên hình B-mode cắt dọc qua các cơ chi dưới. Phân bố Young's modulus trong vùng ROI 15 x 15mm trên hình B-mode (50x30mm) như bản đồ mã màu (mã vùng cứng là màu đỏ và các vùng mềm hơn được mã màu xanh dương). Các giá trị bình quân trong không gian (spatial average values) [+/-SD] của Young's modulus trong các vùng tròn được chọn (đường kính 2mm, được chú thích là alpha hoặc beta) được tính toán. Dimension scales như nhau trong các panels trong đó color-coding scales có biến thiên. (A) Cơ Chày trước lúc nghỉ khi gối duỗi. (B) Cơ Chày trước đang co  khi gối duỗi. (C) Cơ Sinh đôi trong (vùng trên cân nội cơ) và cơ Dép (vùng dưới cân nội cơ) lúc nghỉ khi gối duỗi. (D) Cơ Sinh đôi trong và cơ Dép đang co khi gối duỗi. (E) Cơ Sinh đôi trong và cơ Dép đang co khi gối gập. (F) Cơ Sinh đôi trong và cơ Dép khi đứng yên.

Các đặc điểm cơ học của cơ là thông tin cơ bản của  thực hành lâm sàng và nghiên cứu sinh cơ học (biomechanical) về bệnh lý vận động và chấn thương cơ. Trương lực cơ (“muscle tone”) cần  được định lượng và là đối tượng của nhiều thủ thuật trong thực hành bệnh học lâm sàng như tình trạng co cứng (spasticity)  trong đột quỵ (stroke), chấn thương tuỷ sống  hoặc bệnh xơ cứng rải rác (multiple sclerosis).
Trigger point” trong đau do viêm mạc cơ (myofascial pain) được phát hiện khi sờ bằng tay, như là một vùng “cứng”. Dù có nhiều thuật ngữ sử dụng trong nhiều lãnh vực thực hành lâm sàng, những thuật ngữ này đều dùng để chẩn đoán các loại bệnh lý cơ có liên quan đến độ cứng của cơ. Một trong những thông số dùng định lượng độ cứng (hoặc độ đàn hồi) của mô mềm là Young’s (hoặc đàn hồi, elastic) modulus. Young’s (hoặc đàn hồi) modulus được định nghĩa là độ dốc của đường cong biến dạng do đè ép (stress-strain) của một chất liệu trong vùng biến dạng đàn hồi, là đặc điểm cơ học khu trú của vật liệu cấu tạo. Bởi vậy, định lượng được phân bố của Young’s modulus (thí dụ độ cứng cơ khu trú) ở trong hoặc giữa các cơ có thể làm tăng chính xác khi  khảo sát độ cứng của cơ.
Chúng tôi tiên đoán rằng Young’s (hoặc đàn hồi) modulus của một cơ sẽ lớn hơn khi tăng cường độ co cơ, vì đã biết là khi tăng cường độ co cơ độ cứng của cơ sẽ tăng.

PHƯƠNG PHÁP



Cho đối tượng khám ngồi với chân cố định vào thanh cứng ở tư thế cổ chân trung gian (90 độ) và gối gập (90 độ) hoặc duỗi (0 độ) để đo độ đàn hồi cơ Sinh đôi đang co ; khi co đo độ đàn hồi  kém hơn trong tư thế gối gập. Đối tượng đo thực hiện co cơ tĩnh (static contraction) các cơ gấp mu (dorsiflexors) hoặc cơ gấp gan chân (plantarflexors) sao cho chỉ dùng 30% mức độ co cơ tự ý tối đa để đo độ đàn hồi ;  độ đàn hồi  sẽ tăng khi co cơ. Cuối cùng đối tượng đứng yên trên 2 bàn chân  để test độ đàn hồi các cơ gấp gan chân  trong lúc đứng;  độ đàn hồi các cơ sẽ thấp hơn lúc gấp gan chân lần lượt.
Cơ Sinh đôi trong và cơ Dép dùng test chính bởi 2 lý do. Một, đặc điểm hoạt động cơ của chúng dễ thấy trong các điều kiện trên đã xác định. Thứ hai, với kỹ thuật siêu âm mới, có thể đo đồng thời độ đàn hồi cả 2 cơ.

Dùng đầu dò cầm tay (handheld) của máy SuperSonic Imagine để tạo và phát hiện truyền sóng biến dạng trong mô trong real-time. Lực bức xạ âm do chùm siêu âm tập trung được dùng để tạo ra các mặt phẳng năng lượng transient và low frequency (100-600Hz) sóng biến dạng . Sóng biến dạng transient truyền vào sâu một số cơ trong chi dưới rồi bị chộp với 1 set siêu âm high-rate (5000 frames/sec) bằng đầu dò linear 50mm (8MHz). Tốc độ truyền sóng biến dạng khu trú theo hướng của đơn vị gân-cơ được tính toán khu trú trong vùng ROI (15x15mm vuông).

BÀN LUẬN

Kết quả có được tương thích như dự kiến của chúng tôi, và độ cứng của cơ lúc nghỉ và lúc co trong nghiên cứu này nằm trong khoảng giá trị như của MRI elastography (5-40kPa khi cơ nghỉ và trên 300kPa khi co). Kết quả tương thích với y văn này hỗ trợ cho độ tin cậy của kỹ thuật siêu âm đo độ đàn hồi biến dạng mới như là phương tiện khám cơ động đầy hứa hẹn. Mặc dù MRI không phải là phương tiện cơ động, việc áp dụng MRI elastography vào khảo sát bệnh lý cơ cho thấy MRI có khả năng khảo sát các vùng cơ rộng, bao gồm khả năng phân tích 3 chiều nếu như việc làm giảm phân bố dao động biến dạng được điều chỉnh. Mặt khác kỹ thuật siêu âm này có lợi điểm là cơ động, và không cần có máy gây dao động (vibrators). Độ cứng của cơ phân bố với độ ly giải tốt hơn (500um so với  lớn hơn 1mm ở MRI elastography) và real-time (vài frames mỗi giây so với vài phút của acquisition time  trong MRI elastography).
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ test một số mẩu giới hạn về phương diện loại và số đối tượng và số lượng của ROI và các vùng khảo sát (làm cho dữ liệu có nhiều biến thiên). Khảo sát có hệ thống thêm nữa có thể bảo đảm cho việc áp dụng kỹ thuật hình ảnh học siêu âm cơ động mới này trong thực hành lâm sàng và nghiên cứu cơ bản trong các bệnh lý vận động và chấn thương cơ.

Thứ Năm, 2 tháng 9, 2010

Ultrasound Contrast Agents and Techniques Characterizing Small Liver Tumors

Ultrasound Contrast Agents and Techniques Characterizing Small Liver Tumors

CHẤT TƯƠNG PHẢN SIÊU ÂM và các KỸ THUẬT PHÁT HIỆN TỔN THƯƠNG GAN NHỎ DƯỚI 3cm.

Từ Jing-Houng Wang, Chi-Sin Changchien: Contrast-Enhanced Ultrasonography in Small Liver Tumors (under 3cm), J Med Ultrasound (2008); 16(1):26-40.

Các chất tương phản siêu âm (TPSA)


Chất vi bọt với đường kính nhỏ hơn 8 µm qua được mao mạch và xung siêu âm với tần số 2MHz và áp suất âm khoảng 700kPa có thể làm vỡ vi bọt và tạo ra tín hiệu siêu âm. Bởi vậy, chất tương phản với độ bền vững qua phổi khi tiêm tĩnh mạch ngoại biên có thể được dùng trong nghiên cứu tăng cường âm.
H.1: (a) Sóng âm ngẫu nhiên. (b) Phản âm của vi bọt không tuyến tính. (c) Phổ tần số của phản âm vi bọt.

Trong số các chất tương phản siêu âm, gồm SonoVue, Levovist, Sonazoid, Optison, Definity and Imagent, 3 loại chất tương phản thường được dùng tại Âu châu, là SonoVue, Levovist, Sonazoid, Optison.
Bảng 1: Chất tương phản siêu âm và protocol tạo hình trong thì mạch máu và thì trễ.

1. Levovist (SH U 508A): Chất vi bọt Levovist chứa khí với chất bề mặt galactose/palmitic acid (của Schering, 1996). Chất vi bọt trong Levovist được bọc trong một lớp mỏng palmitic acid. Flash echo không thể quan sát được dưới độ sâu 7cm, vì áp lực âm học hạ thấp dưới ngưỡng làm vỡ vi bọt do hiện tượng giảm âm do mô. Để đảm bảo độ giảm âm là 0,6 dB/MHz/cm cường độ truyền âm phải giảm còn -10,5dB hoặc trong khoảng 420kPa ở độ sâu 7cm. Điều này gợi ra rằng cần nhiều năng lượng xuất ra để Levovist có được flash echo sâu hơn 7cm. Chỉ định chủ yếu dùng Levovist gổm các nghiên cứu ở tim, bụng (kể cả hồi lưu bàng quang niệu quản) và xuyên sọ.

2. SonoVue (chất TPSA thế hệ 2): Chất vi bọt SonoVue chứa sulfur hexafluoride với vỏ phospholipid (Bracco, Milan, Italy, 2001), là chất khí perfluoro hồ máu (blood pool perfluoro gas agent), gồm vi bọt sulfur hexafluoride được ổn định bằng vỏ phospholipid. Vi bọt này đẳng trương với plasma người, ổn định và kháng áp lực. SonoVue dùng tăng cường tưới máu khối u và tưới máu nhu mô gan bình thường. Chỉ định chủ yếu của SonoVue là tim, mạch máu lớn , tổn thương gan và vú.

3. Optison: Optison chứa octafluoropropane (perflutren) với vỏ albumin (Amersham,1998). Chỉ dùng cho tim.

Các chất TPSA gồm vi bọt chứa khí có vỏ bọc; Levovist chứa không khí, trong khi SonoVue (sulfur hexafluoride) và Optison (perflutren) chứa khí với độ hòa tan thấp (low solubility gases) để làm tăng độ bền vi bọt.


Các kỹ thuật

Siêu âm hòa âm (Harmonic imaging)

Vì có khác biệt trở âm (acoustic impedance) giữa không khí và chất lỏng, vi bọt chứa khí trong chất lỏng có thể phản hồi tín hiệu siêu âm có năng lượng đáng kể, không chỉ với tần số cơ bản từ đầu dò mà còn các hòa âm bậc cao hơn. Bằng cách dùng những đặc điểm không tuyến tính này của vi bọt, có một nghiên cứu tạo hình hòa âm về dòng chảy mao mạch được báo cáo năm 1992. Trong phương pháp này, tín hiệu được truyền đi với tần số cơ bản, nhưng lại nhận về được hòa âm bậc cao hơn. Là vì máy siêu âm truyền đi ở một tần số, nhưng nhận về gấp đôi hay gấp ba lần tần số đã truyền. Phương pháp này làm tăng cường độ phát hiện chất TPSA vi bọt. Tạo hình hòa âm giúp thấy được dòng chảy mao mạch trong mô, vốn không thể phát hiện bằng B-mode quy ước hay siêu âm Doppler màu.


Siêu âm đảo xung (Pulse inversion imaging)

Vì có giới hạn về độ ly giải do tạo hình hòa âm làm hạn chế độ rộng dải tần, siêu âm đảo xung được thiết kế nhằm cho phép cường độ thấp và không phá hủy tạo hình liên tục chất vi bọt trong cơ quan (như gan) để có hình tăng cường tương phản chất lượng cao.

Siêu âm đảo xung có khả năng cao hơn siêu âm hòa âm hoặc Doppler quy ước, cho các hình ảnh mạch máu hòa âm (harmonic angio images). Trong siêu âm đảo xung, 2 xung riêng biệt (xung bình thường và xung đảo ngược 180 độ) được truyền nhanh nối  tiếp vào mô. Xung đảo là hình soi gương của xung bình thường. Phản âm từ 2 xung nối tiếp được nhận lại và tạo nên tổng của chúng. Phản âm từ mô loại bỏ từng xung theo tuyến tính, và tổng của chúng là bằng không.

H.2: Bằng cách thêm vào 2 phản âm vi bọt liên tục từ xung đảo ngược, siêu âm đảo xung loại bỏ các phản âm cơ bản mà không phải lọc.

Với phản âm có các thành phần không tuyến tính, như phản âm từ vi bọt, phản âm từ 2 xung này không đơn giản là hình soi gương. Vì bán kính vi bọt không đối xứng theo thời gian, tổng của 2 xung không phải là zero. Điều đó có nghĩa là phản âm hiện diện và chứa các thành phần hoà âm không tuyến tính của tín hiệu (bao gồm hòa âm thứ cấp). Do vậy phát hiện được tín hiệu từ vi bọt chứ không phải từ mô.




H.3: Siêu âm đảo xung xử lý tín hiệu.

Siêu âm đảo xung không bị giới hạn do độ rộng dải tần; toàn bộ khoảng tần số âm phát từ đầu dò đều được phát hiện và kỹ thuật này rất có hiệu quả.


Kỹ thuật chỉ số cơ học thấp (Low mechanical index [MI] technique)

Xung siêu âm với một cường độ âm học có khả năng làm vỡ vi bọt chất TPSA. Chỉ số cơ học thấp với năng lượng âm học rất thấp (như dưới 0,2) tránh làm vỡ vi bọt. Kỹ thuật tương phản chỉ số cơ học thấp giúp đánh giá tiếp sau 3 pha mạch máu khác nhau của tạo hình động bằng cách dùng chất TPSA có khí với độ hòa tan thấp. Tiêm bolus chất TPSA theo sau với 5-10mL saline . Kim tiêm dùng không nhỏ hơn 20 gauge nhằm tránh thất thoát vi bọt do tác động cơ học lúc tiêm. Quét khoảng 60-90 giây để liên tục có hình pha động mạch và pha tĩnh mạch cửa. Tưới máu vi mạch sẽ thể hiện khi chất TPSA trong mô biến mất. Thông số cài đặt của low MI là dùng tần số 3 MHz, acoustic power từ −75 đến −90 dB, và frame rate khoảng 17–20. Thời gian khảo sát mạch máu trên 3,5 phút, gồm pha động mạch 0-49 giây, pha tĩnh mạch cửa 50-179 giây và pha trễ trên 180 giây.


Kỹ thuật chỉ số cơ học cao (High MI technique)

Kỹ thuật chỉ số cơ học cao, trong đó chất vi bọt bị phá hủy có cân nhắc, có thể có ích trong phát hiện tổn thương gan khu trú và phân loại chúng. Kỹ thuật này cần khảo sát gián đoạn tổn thương trong suốt 3 pha. Hủy vi bọt bằng kỹ thuật chỉ số cơ học cao giúp phân cách mô và chất TPSA. Kỹ thuật này được gọi là tạo hình phát hiện chất TPSA (agent detection imaging, ADI). Với Doppler,  ADI biểu hiện tín hiệu vi bọt với màu chồng lên hình mô thang xám. Với kỹ thuật ADI, hình ảnh phá hủy vi bọt thể hiện gan bình thường có nền sáng và tổn thương di căn thì đen không có tín hiệu. Do đó ADI làm cho CEUS rất nhạy.



Tạo hình hòa âm gián đoạn với subtraction mode

Với kỹ thuật tạo hình hòa âm thứ cấp, tạo hình hòa âm gián đoạn (flash echo) với subtraction mode dùng để đánh giá tưới máu động các tổn thương nhỏ mà Doppler thất bại vì không thể hiện được mạch máu. Kỹ thuật này tiến hành theo cách thức như sau. Máy siêu âm truyền chùm siêu âm, ví dụ ở 2,1MHz và nhận lại phản âm ở 4,2MHz và được cài đặt để tạo nên 2 sự bùng nổ năng lượng âm học cao (high MI, 1,0-1,2) khi truyền nhanh nối tiếp. Hình subtraction có được tự động bằng cách cài đặt máy subtract khung hình thứ 2 từ khung hình đầu tiên. Hình flash echo với subtraction mode có thể thiết kế tùy yêu cầu người khám. Hình năng lượng âm thấp (low acoustic power imaging) real-time (low MI, 0,2) được dùng để theo dõi trong các khoảng cách của tạo hình flash echo.



Nghiên cứu Pha mạch máu của Gan

Cấp máu động mạch gan thường bắt đầu 10-20 giây sau tiêm tĩnh mạch và mất khoảng 10-15 giây. Tiếp sau là pha tĩnh mạch cửa, thường mất khoảng 2 phút sau tiêm chất TPSA. Pha trễ cho đến khi sạch chất TPSA trong mô gan khoảng trên 15-20 phút sau tiêm Levovist và 4-6 phút sau tiêm SonoVue.

1. Pha động mạch: Chất TPSA tới gan trước tiên theo động mạch gan và cho thông tin theo mức độ và kiểu tưới máu. Các khối u nhiều máu cấp biểu hiện nhiều tưới máu trong pha này.

2. Pha tĩnh mạch cửa: Chất TPSA đi qua hệ tuần hoàn và trải khắp gan theo các nhánh cửa. Pha này mất 2 phút sau tiêm chất TPSA.

3. Pha trễ (nhu mô): Pha trễ hay pha nhu mô tiếp sau pha tĩnh mạch cửa, ở pha này chất TPSA phân bố chậm trong toàn bộ nhu mô gan. Còn nhiều bàn cãi về lúc bắt đầu pha trễ và gợi ý các cơ chế như làm đầy các xoang và hệ lưới võng nội mô/ tế bào Kupffer bắt thuốc.

Pha tĩnh mạch cửa và pha trễ cho thông tin về wash-out chất TPSA từ tổn thương đối chiếu với mô gan lành. Trong trường hợp hemangioma có thể thấy quá trình làm đầy thuốc xảy ra trong các pha này. Tăng cường trong thì tĩnh mạch cửa và thì trễ có những thông tin quan trọng về bản chất của tổn thương.

Phần lớn tổn thương ác tính là hypo-enhancing, trong khi đa số tổn thương đặc lành tính thì iso hoặc hyper-enhancing. Giới hạn của CEUS trong phân biệt tổn thương gan cũng là đối tượng của các kỹ thuật siêu âm khác, và độ nhạy giảm đi rõ trong gan giảm âm và các tổn thương ở sâu.
Bảng 2: Xu hướng mạch máu tổn thương trong khi khảo sát bằng chất tương phản siêu âm.

Và như là quy luật chung, nếu điều kiện siêu âm không tối hảo, kết quả của CEUS cũng có thể làm thất vọng.


Flash echo imaging với subtraction mode ở một bệnh nhân có 1 u HCC nhỏ =1cm đường kính. A: SA quy ước với tổn thương echo kém nhỏ (mủi tên). B: Thì động mạch của CEUS tổn thương hypervascular không thể phân biệt với nhu mô gan được tăng cường xung quanh.C: Với subtraction mode tổn thương thể hiện rõ (mủi tên). D+E: Thì tĩnh mạch cửa và thì trễ tổn thương là hypoechoic (mủi tên). F: Subtraction hình pha trễ tổn thương vẫn là hypoechoic (mủi tên).