Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

SIÊU ÂM PHỔI từ WFUMB 2011


Siêu âm phổi : Một kỹ thuật mới đến

Phỏng vấn GS Gebardt Mathis, Austria



Trong bài giảng danh dự của ông tại WFUMB, giáo sư Mathis tập trung vào siêu âm phổi, một kỹ thuật mới đến.

Ultrasound thực sự phát triển trở thành một phương thức tất yếu, ví dụ để chẩn đoán tràn khí màng phổi (pneumothorax), nhiễm trùng hoặc lấp mạch (embolisms), và cho thấy có độ nhạy tương đương với CT xoắn ốc. Trong ấn phẩm WFUMB 'Thế giới siêu âm' giáo sư Mathis trả lời ba câu hỏi quan trọng nhất về chủ đề này.

Chỉ định siêu âm nào là phù hợp?

Giáo sư Mathis: ' Đã có một sự đồng thuận ở hội nghị quốc tế về chủ đề năm trước mà các chỉ định -- dựa trên kinh nghiệm hiện tại -- đã được xác định rõ ràng: việc sử dụng siêu âm phổi trong các trường hợp nghi ngờ tràn dịch màng phổi đã được biết đến từ lâu. Tuy nhiên, sử dụng siêu âm để xác nhận hoặc loại trừ tràn khí màng phổi (pneumothorax) ít được biết và phổ biến, mặc dù rất hiệu quả.



' Siêu âm có thể cũng được sử dụng để phát hiện viêm phổi, với một độ nhạy là 94%, mặc dù không thể được dùng để loại trừ viêm phổi. Phổi bị lấp mạch (pulmonary embolism) cũng có thể nhìn thấy rõ ràng bằng siêu âm trong nhiều trường hợp, với độ nhạy là 80%. Chỉ có lấp mạch trung tâm phổi vẫn còn khó thấy. Bằng cách kết hợp thủ thuật, như siêu âm tim và siêu âm ngực trong trường hợp compression ultrasonography tĩnh mạch chân, chúng tôi cũng đạt được độ nhạy là 92%. Phổi bị lấp mạch không thể được loại trừ, mặc dù điều này cũng là không thể với bất kỳ thủ thuật chẩn đoán hình ảnh khác nào, bao gồm cả CT xoắn ốc.

' Nói chung, siêu âm cho phép chúng ta hiển thị đông đặc (consolidations) dưới màng phổi, bất kể cho dù do nhiễm trùng, lấp mạch hoặc bệnh lành tính. Trong trường hợp khối u, siêu âm hướng dẫn chọc sinh thiết là vô cùng chính xác. Đề nghị trong văn bản đồng thuận nói rằng trong một số trường hợp lâm sàng, như mô tả ở trên, hoặc trong trường hợp CT được chỉ định -- ví dụ như trong trường hợp suy thận, dị ứng với chất tương phản hay mang thai -- siêu âm nên được sử dụng trước tiên.'

Phát triển công nghệ nào có tác động tích cực vào chẩn đoán siêu âm phổi?


' Chất tương phản siêu âm, ngày càng được sử dụng nhiều, là đặc biệt có lợi. Khi  đông đặc phổi do nhiễm trùng tập trung mạnh, tổn thương nhỏ dưới màng phổi có thể phân biệt được tốt và an toàn với những thay đổi do bị lấp mạch. Các chẩn đoán dương tính như vậy với CT không phải tất cả đều có thể ; ở đây siêu âm có lợi thế rõ ràng.

' Các thiết bị di động, tiện dụng mới cũng đã mở ra các ứng dụng mới. Có thay đổi thực sự kiểu ở đây, bởi vì đầu dò siêu âm được sử dụng gần như giống như một ống nghe trong mọi lúc. Ở Mỹ, siêu âm do đó càng trở thành một phần của trang bị tiêu chuẩn bị cho bác sĩ cấp cứu, những người đã tái phát hiện thủ thuật này với chính mình-- xu hướng này cũng trở thành rõ ràng ở châu Âu. Tôi tin rằng sẽ xảy ra rất nhiều điều trong lĩnh vực này trong những năm tới.'

’Thủ thuật này có những giới hạn nào?


' Hạn chế lớn nhất là không khí, làm mất hình. Nếu không, siêu âm chẩn đoán bụng, tim và mạch máu đòi hỏi kinh nghiệm nhất định để đạt được kết quả đúng. Chúng tôi đề nghị một khóa học dạy lý thuyết cơ bản. Mặt khác, tôi thực sự thấy chẩn đoán phổi bằng siêu âm có nhiều cơ hội hơn là bị giới hạn. 

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

REAL-TIME ELASTOGRAPHY in DETECTION of PROSTATE CANCER in PATIENTS with RAISED PSA LEVEL

Nghiên cứu thực hiện để đánh giá vai trò của siêu âm đàn hồi tức thì (real-time elastosonography, ES) trong phát hiện ung thư tiền liệt tuyến (prostate cancer, PCa) ở 50 bệnh nhân có gia tăng PSA và nhằm xác định khi nào ES được dùng để sinh thiết trúng đích (targeted biopsy). 50 bệnh nhân có gia tăng PSA được làm siêu âm qua ngã trực tràng (transrectal ultrasound, TRUS) và khám siêu âm đàn hồi ES. Hình ảnh ES được nén thích hợp và có yếu tố chất lượng hơn 50% được phân tích để tìm các vùng tuyến gia tăng độ cứng. Các dấu hiệu của ES tương ứng với thương tổn đích và sinh thiết lõi 10 và độ nhạy, độ đặc hiệu được tính cho mỗi bệnh nhân và mỗi sinh thiết lõi. ES cho thấy có độ nhạy và độ chuyên biệt lần lượt trên mỗi bệnh nhân là 91,7% và 86,8%, với tỉ lệ dương tính giả là 13%.


Độ nhạy và độ chuyên biệt trên mỗi sinh thiết lõi trúng đích của ES là 72,5% và 100% so sánh với 100% và 81% của nhóm sinh thiết lõi thường quy (systematic). Kết luận của nghiên cứu là kết hợp ES với TRUS đã làm tăng cường độ nhạy có ý nghĩa khi phát hiện prostate carcinoma ở bệnh nhân có tăng PSA. Tuy nhiên ES không thể phân biệt ung thư tiền liệt tuyến với viêm mạn tính. Việc sử dụng siêu âm đàn hồi ES để sinh thiết trúng đích cũng làm tăng cường độ chuyên biệt cho sinh thiết lõi thường quy.