Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2011

PNEUMONIA COMPLICATED by PARAPNEUMONIC EFFUSION in CHILDREN, COMPARISON of ULTRASOUND and CT in the EVALUATION



Thảo luận


Không có sự đồng thuận trên các kỹ thuật hình ảnh tối ưu cho viêm phổi có biến chứng ở trẻ em. Tại nhiều trung tâm, bệnh nhân thường phải CT ngực chẩn đoán tràn dịch màng phổi  và bệnh lý chủ mô trước khi đặt ống ngực dẫn lưu hoặc phẫu thuật dẫn lưu và bóc màng phổi (decortication). Mặc dù CT ngực có hình ảnh nhanh chóng, việc tăng sử dụng CT trong nhi khoa làm tăng mối quan tâm về bức xạ ion hóa ngày càng tăng. Bởi vì các nguy cơ gây ra bệnh ung thư ở trẻ em của bức xạ từ chẩn đoán hình ảnh y tế được ước tính là cao = một trên 500, cần có chiến lược hình ảnh thay thế khác.

Vài nghiên cứu đã so sánh hiệu quả của siêu âm ngực và CT ngực ở bệnh nhân viêm phổi biến chứng và tràn dịch do viêm phổi (parapneumonic effusion). Các nghiên cứu trước đây ở cả trẻ em và người lớn đã tập trung chủ yếu vào khả năng của siêu âm ngực hoặc CT ngực tương quan với giai đoạn tràn dịch hoặc để dự đoán kết quả lâm sàng và đã cho thấy kết quả thay đổi ra sao. Cả siêu âm ngực lẫn CT ngực đều không dự đoán được chính xác giai đoạn tràn dịch. Gần đây nhất, Jaffe et al  so sánh CT ngực và siêu âm ngực trong 31 trẻ em bị viêm phổi có biến chứng và tìm thấy có tương quan yếu trong effusion scores (cho điểm tràn dịch). Nghiên cứu này không bao gồm so sánh kết quả dấu hiệu chủ mô.

Kết quả của chúng tôi thống nhất với các báo cáo trước đó về việc sử dụng siêu âm ngực trong đánh giá parapneumonic effusion. Mặc dù siêu âm ngực bị giới hạn bởi trường nhìn nhỏ (small field of view) và shadowing của các cấu trúc sâu bởi khí nằm trên (overlying air), chúng tôi thấy rằng siêu âm ngực cũng phát hiện được dịch màng phổi và tạo ngăn (loculation) khi so sánh với CT ngực. Siêu âm ngực hơn CT ngực trong khả năng phát hiện thành phần dịch màng phổi trong đó sợi fibrin (fibrin strands), là dấu hiệu sớm của dịch màng phổi tổ chức hóa. Trong nghiên cứu của chúng tôi, loculation thấy trên CT ngực cũng thấy được trên siêu âm ngực trong tất cả các bệnh nhân ngoại trừ một người chậm trễ làm siêu âm ngực và CT ngực có thời gian cho tràn dịch được tổ chức hóa nhiều hơn. Trong nhóm nhỏ bệnh nhân trải qua VAT, tất cả, nhưng một trong những bệnh nhân với phẫu thuật xác nhận empyema cho thấy dịch loculated trên siêu âm ngực và CT ngực khi thực hiện trong vòng vài ngày, và tất cả siêu âm ngực đều cho thấy có fibrin stranding.

Các khuyến nghị BTS gần đây nhất khuyến khích việc sử dụng siêu âm ngực để xác nhận tràn dịch màng phổi, nhưng các guidelines lưu ý rằng tăng cường độ tương phản CT ngực có ích cho việc đánh giá bệnh lý chủ mô nặng. Điều này có nhiều ý nghĩa lâm sàng vì viêm phổi hoại tử đòi hỏi một đợt kháng sinh kéo dài. Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi, siêu âm ngực có kết quả tương tự như CT ngực có tăng cường độ tương phản trong chẩn đoán đông đặc phổi, hoại tử phổi và ápxe phổi.

Nghiên cứu này bị giới hạn bởi kích thước mẫu nhỏ. Ngoài ra, siêu âm ngực không được đánh giá trong thời gian thực vì là hồi cứu. Chúng tôi cũng thừa nhận rằng, trong khi CT ngực được chuẩn hóa bằng cài đặt máy, chất lượng kỹ thuật của siêu âm ngực rất biến thiên trong mẫu của chúng tôi. Cần lưu ý, hình ảnh với đầu dò linear  hơn hẵn đầu dò sector trong phát hiện bất thường của cả màng phổi và nhu mô phổi.

Trong nhóm trẻ em bị viêm phổi biến chứng bởi parapneumonic effusion, siêu âm ngực cung cấp dữ liệu tương tự như CT ngực trong đánh giá tràn dịch màng phổi cũng như đánh giá đông đặc chủ mô (parenchymal consolidation), hoại tử (necrosis) hoặc ápxe. CT ngực đã không cung cấp bổ sung thêm bất kỳ thông tin lâm sàng hữu ích nào mà siêu âm ngực đã thấy. Lợi ích của siêu âm ngực trên CT ngực bao gồm portability, không cần cho bệnh nhân an thần, và khả năng phát hiện sợi fibrin vượt trội trong tràn dịch màng phổi, tương đương với phát hiện empyema trong nghiên cứu. Theo nguyên tắc của việc giảm thiểu tiếp xúc với bức xạ ALARA (as low as reasonably achievable), chúng tôi đề nghị việc đánh giá  viêm phổi có biến chứng ở  trẻ em  nên gồm chụp x-quang ngực và siêu âm ngực. CT ngực có thể được dành riêng cho những bệnh nhân mà siêu âm ngực khó khăn về mặt kỹ thuật hoặc cần phân biệt với những dấu hiệu lâm sàng khác.


Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

An abdominal and thyroid status with Acoustic Radiation Force Impulse Elastometry

An abdominal and thyroid status with Acoustic Radiation Force Impulse Elastometry - A feasibility study Acoustic Radiation Force Impulse Elastometry of human organs.Goertz RS, Amann K, Heide R, Bernatik T, Neurath MF, Strobel D, Eur J Radiol. 2010 Oct 22. [Epub ahead of print]
Abstract

PURPOSE:

Acoustic Radiation Force Impulse (ARFI) is a new method for the quantification of tissue elasticity. To date, ARFI technology has not been applied systematically to establish an abdominal and thyroid status. The aim of this prospective feasibility study was to evaluate ARFI elastometry performed on various healthy abdominal organs and the thyroid gland.

MATERIAL AND METHODS:

94 patients (43 females, 51 males) with a mean age of 54 years and 20 healthy controls were enrolled in the study. A routine ultrasound examination of the abdomen was scheduled in 72, and of the thyroid in 25. ARFI elastometry was performed in liver, spleen, pancreas, prostate, kidneys and thyroid gland with the ultrasound system Acuson S2000. ARFI values are proportional to tissue elasticity. Patients with ultrasonic or anamnestic evidence of diseased organs were excluded from the analysis. ARFI measurements were compared with the aid of the t-test and correlated using Spearman's correlation coefficient.

RESULTS:

ARFI elastometry proved feasible and the measurements obtained in the various organs differed significantly. Among healthy organs the spleen showed the highest mean ARFI velocities, followed by the kidney, thyroid, pancreas and the prostate.

The lowest ARFI values were regularly found in healthy liver. Measurements in the kidneys and the spleen showed high standard deviation.

CONCLUSIONS:

ARFI elastometry may describe parenchymal stiffness of various abdominal organs and the thyroid gland. Further investigations are needed to compare these baseline findings in healthy organs with those of various tumours or diseases affecting the individual organs.

Tình trạng bụng và tuyến giáp với siêu âm đàn hồi ARFI - Nghiên cứu tính khả thi của siêu âm đàn hồi ARFI  các cơ quan ở người.


MỤC TIÊU:

ARFI là một phương pháp mới đo độ đàn hồi mô. Đến nay, công nghệ ARFI chưa được áp dụng có hệ thống để  khám bụng và tình trạng tuyến giáp. Mục đích của nghiên cứu tính khả thi tiền cứu này nhằm đánh giá siêu âm đàn hồi ARFI thực hiện trên nhiều cơ quan bụng bình thường và tuyến giáp.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP:

94 bệnh nhân (43 nữ, 51 nam) với tuổi trung bình 54 năm và 20 người lành mạnh đã được nghiên cứu. Một cuộc khám thường lệ siêu âm bụng ở 72 ca, và tuyến giáp, 25 ca. Siêu âm đàn hồi ARFI được thực hiện ở gan, lách, tụy, tuyến tiền liệt, thận và tuyến giáp với máy siêu âm Acuson S2000. Giá trị ARFI có tỷ lệ thuận với độ đàn hồi mô. Bệnh nhân với bằng chứng bệnh cơ quan ở siêu âm hoặc khai báo được loại khỏi các phân tích. Các đo đạc ARFI đã được so sánh với t-test và tính tương quan bằng hệ số tương quan Spearman.

KẾT QUẢ:

Siêu âm đàn hồi ARFI đã chứng tỏ tính khả thi và số đo của các cơ quan khác nhau có ý nghĩa. Trong số các cơ quan bình thường, lách có tốc độ ARFI trung bình cao nhất, theo sau là thận, tuyến giáp, tuyến tụy và tuyến tiền liệt. Các giá trị ARFI thấp nhất thường thấy ở gan. Các số đo ở thận và lách cho thấy độ lệch chuẩn cao.

KẾT LUẬN:

Siêu âm đàn hồi ARFI có thể mô tả độ cứng chủ mô các cơ quan bụng và tuyến giáp. Cần nghiên cứu thêm để so sánh những phát hiện cơ sở của cơ quan bình thường với của các khối u hay bệnh có ảnh hưởng đến các cơ quan riêng lẻ.


Copyright © 2010 Elsevier Ireland Ltd. All rights reserved.

VÀI HÌNH ẢNH SIÊU ÂM ĐÀN HỒI ARFI TẠI MEDIC
Nhân giáp thùy T với kỹ thuật eSie Touch Elasticity (quality factor=55, elastographic map, shadow measurement).
4 nhân giáp thuỳ P với elastographic map off color



                               U vú T với elastographic map chủ yếu là red (cứng) với QF= 70

                                               Lao vú với  nền nhiễm cứng QF=75


                                                               U vú T, BIRADs 5, QF=75


Acoustic radiation force impulse elastography (ARFI) in patients with autoimmune thyroid disease

M Vlad, I Zosin, M Balas, I Sporea, S Bota, A Popescu, A Popa & S Radu


Introduction: Elastography is a new dynamic technique that uses ultrasonography for the assessment of tissue stiffness. The principle of ultrasound-elastography is that compression of the examined tissue induces a smaller strain in hard tissues than in soft ones. Until now elastography has been applied to study the hardness and elasticity of thyroid nodules, aiming to differentiate malignant from benign ones.

Aim: We decided to study if ultrasound elastography by Acoustic Radiation Force Impulse (ARFI) can offer information about the stiffness of thyroid gland parenchyma in patients with chronic thyroid pathology, Graves’ disease and chronic autoimmune thyroiditis (CAT).

Patients and methods: We studied 51 patients, 29 with Graves’ disease and 22 with CAT (diagnosed by specific tests), and 23 healthy volunteers. For all subjects, 10 elastography determinations were performed in the right thyroid lobe (RTL) and 10 in the left thyroid lobe (LTL). The measurements were performed with a Siemens Acuson S2000 ultrasound system, using a convex probe 2–6 MHZ. The values were expressed in meters/second (m/s) and the median was calculated. We calculated a mean value between ARFI from LTL and RTL. The t-test was used to compare the ARFI values.

Results: We found a statistically significant difference between subjects without thyroid pathology (healthy volunteers) and those with autoimmune thyroid diseases (2.07±0.44 vs 2.68±0.50 m/s) (P<0.001). Thyroid stiffness was statistically significant higher in patients with Graves’ disease versus those with CAT (2.82±0.47 vs 2.49±0.48 m/s) (P=0.02). In cases with CAT, we obtained a significant difference between ARFI values in the two thyroid lobes.

Explanations for this difference would be the distribution of fibrosis in the thyroid gland and the differences regarding vascularization and thyroid volume.

Conclusion: ARFI seems to be a useful method to predict accurately enough the presence of autoimmune thyroid diseases (AUROC=0.80).

Endocrine Abstracts (2011) 26 P427